Kenh giai tri, tin tuc giai tri,

Âm Mưu Ngày Tận Thế(Truyện Trinh Thám)<Chương 22-30>

books_thumb13_thumb
Chương 22
Ngày thứ năm.
Bern, Thuỵ Sĩ.
Robert đang đi vào ngõ cụt. Anh không nhận ra là đã trông cậy nhiều thế nào vào việc kiếm được cái danh sách của Mothershed. Tan thành mây khói cả. Robert nghĩ. Theo đúng nghĩa đen của nó. Các dấu vết bây giờ thật mờ nhạt. Lẽ ra mình phải đoạt bản danh sách kia lúc mình ở trong căn hộ của Mothershed.
Điều đó sẽ dạy cho mình một bài học. Tất nhiên. Một ý nghĩ đâu đó có trong đầu anh chợt nổi lên. Hans Beckerman có nói: "Tất cả những hành khách đều muốn được xem cái vật thể bay lạ và những sinh vật chết trong đó, nhưng cái lão già ấy thì cứ phàn nàn đòi sớm về Benr bởi vì lão ta phải chuẩn bị một bài giảng ở trường đại học". Chuyện thật mơ hồ, nhưng đó là tất cả những gì Robert có trong tay.
Anh thuê một cái xe ở sân bay Bern và chạy về hướng trường đại học. Anh rời khỏi đường Rathausgasse, con đường chính của thành phố Bern và lái xe chạy tới Langgassetrsase, nơi có Đại học Bern. Trường đại học nầy gồm dăm toà nhà, cao bốn tầng, với hai dãy ngang và những tượng đá lớn trên mái. Ở mỗi đầu sân, mặt trước của toà nhà là nhùng cửa sổ bằng kính của nhữtng phòng hộc, và ở phía sau trường là một khoảng vườn lớn nhìn ra sông Aare.
Robert bước lên bậc thềm của toà nhà hành chính và bước vào phòng thường trực. Thông tin duy nhất mà Beckerman trao cho anh là ông khách đó người Đức và ông ta đang chuẩn bị bài giảng cho ngày thứ Hai.
Một sinh viên đã chỉ cho anh tới Phòng hành chính.
Một phụ nữ ngồi sau bàn có một vóc người thật dễ sợ. Bà ta mặc một bộ complê cắt rất vừa vặn, mang một cặp kính gọng đen và tóc được búi thành một búi nhỏ. Bà ta ngước nhìn lên khi Robert bước vào.
- Xin mời.
Robert móc ra một tấm thẻ cảnh sát quốc tế.
- Tôi đang thực hiện một cuộc điều tra, và tôi sẽ đánh giá cao sự hợp tác, thưa cô.
- Bà. Bà Schreiber. Điều tra chuyện gì vậy?
- Tôi đang tìm kiếm một giáo sư.
- Tên ông ta? - Bà ta cau mầy.
- Tôi không biết.
- Ông không biết cả tên ông ta?
- Không. Ông ta là một giảng viên mời thôi. Ông ta có một bài giảng ở đây, cách đây vài ngày. Hôm thứ Hai.
- Ngày nào cũng, có nhiều giảng viên mời tới đây giảng bài. Môn học của ông ta là môn gì?
- Bà nói gì ạ?
- Ông ta dạy môn gì? - Giọng bà ta trở nên mất kiên nhẫn. - Ông ta dạy môn học gì?
- Tôi không biết.
Bà ta không giấu vẻ bực tức.
- Trời đất. Tôi không thể giúp ông. Và tôi không có thì giờ cho những chuyện phù phiếm nầy. Bà ta định quay đi.
- Ồ, đây không phải là chuyện phù phiếm. - Robert cam đoan với bà ta. - Hoàn toàn nghiêm túc đấy. - Anh cúi xuống và thấp giọng nói. - Tôi sẽ phải để bà biết công việc của tôi. - Vị giáo sư nầy liên quan tới một tổ chức đĩ điếm.
Bà Schreiber há mồm kinh ngạc.
- Cảnh sát quốc tế đã theo dõi ông ta trong nhiều tháng. Thông tin chúng tôi hiện có cho thấy ông ta là người Đức và rằng ông ta có một bài giảng ở đây vào ngày mười lăm tháng nầy. - Anh đứng thẳng người lên. - Nếu bà không muốn giúp đỡ, chúng tôi có thể tiến hành một cuộc điều tra chính thức tại trường nầy. Tất nhiên, dư luận…
- Không, không. - Bà ta nói. - Không thể để nhà trường liên quan tới một chuyện như vậy. - Trông bà ta đầy vẻ lo ngại. - Ông nói là ông ta giảng bài ở đây hôm nào nhỉ?
- Ngày mười lăm. Thứ hai.
Schreiber nhỏm dậy và đi tới bên tủ hồ sơ. Bà ta mở tủ và lướt qua đám giấy má. Từ một chiếc cặp, bà ta rút ra mấy tờ giấy.
- Đây rồi! Có ba giáo sư mời giảng vào hôm mười lăm.
- Người tôi muốn biết là người Đức.
Tất cả họ đều là người Đức. - Schreiber nói quả quyết. Bà ta sắp xếp mấy tờ giấy trong tay. - Một bài giảng là về các vấn đề kinh tế, một về hoá học và một về tâm lý…
- Tôi có thể xem chúng được không?
Một cách miễn cưỡng, bà ta đưa xấp giấy cho Robert.
- Anh xem kỹ từng tờ. Trên mỗi tờ đều có một cái tên với địa chỉ nhà riêng và số điện thoại.
- Nếu ông muốn, tôi có thể làm bản sao cho ông.
- Không, cảm ơn. - Anh đã nhớ tất cả những cái tên và những con số. Không có ai trong số nầy là người mà tôi đang tìm kiếm.
Bà Schreiber thở phào nhẹ nhõm.
Ôi cảm ơn Chúa. Đĩ điếm. Chúng tôi sẽ không bao giờ dinh dáng đến một chuyện như vậy.
- Xin lỗi đã làm phiền bà vì một chuyện không đâu.
Robert đi ra và hướng tới một trạm điện thoại công cộng trong thành phố.
Cú điện thoại đầu tiên là tới Berlin.
- Giáo sư Streubek phải không ạ?
- Phải.
Đây là Công ty xe du lịch Sunshine. Ông để quên kính trên chiếc xe bus của chúng tôi hôm chủ nhật trước khi ông đi du lịch ở Thuỵ Sĩ và…
- Tôi không hiểu ông muốn nói chuyện gì nữa. - Giọng ông ta có vẻ khó chịu.
- Ông ở Thuỵ Sĩ hôm mười bốn, có phải vậy không, thưa giáo sư?
- Không. Ngày mười lăm. Để giảng bài ở Đại học Bern.
- Và ông không đi chuyến xe du lịch của chúng tôi ư?
- Tôi không có thì giờ cho một chuyện ngốc nghếch như vậy. Tôi là một người bận rộn. - Và ông giáo sư gác máy.
Cú điện thoại thứ hai là tới Hamburg.
- Giáo sư Heinrich phải không ạ?
- Đây là giáo sư Heinrich!
Công ty xe du lịch Sunshine. Ông có ở Thuỵ Sĩ vào ngày mười bốn tháng nầy phải không ạ?
- Vì sao mà ông muốn biết?
Bởi vì chúng tôi tìm thấy chiếc cặp của ông trên một trong những chiếc xe bus của chúng tôi, thưa giáo sư, và…
- Ông nhầm người rồi, tôi không có mặt trên chiếc xe bus du lịch nào hết.
- Ông không đi tuyến du lịch của chúng tôi đến Jungfrau à?
- Tôi đã nói với ông rồi, không.
- Tôi xin lỗi vì đã làm phiền ông.
Cú điện thoại thứ ba được gọi tới Munich.
- Giáo sư Otto Schmidt phải không ạ?
- Vâng.
- Giáo sư Schmidt, đây là công ty xe du lịch Sunshine. Chúng tôi giữ cặp kính mà ông đã để quên trên một chiếc xe của chúng tôi cách đây ít hôm, và…
Hẳn là có chuyện nhầm lẫn rồi.
Tim Robert thắt lại. Anh đã thua. Không còn gì để mà tiếp tục nữa. Giọng nói ở đầu dây kia tiếp tục.
- Tôi có kính của tôi đây thôi. Tôi đâu có mất.
Robert chợt thấy phấn chấn.
- Ông chắc thế chứ, giáo sư? Ông đi tuyến Jungfrau ngày mười bốn có phải không ạ?
- Vâng, vâng, nhưng tôi đã nói rồi, tôi không mất gì cả mà.
- Cảm ơn ông rất nhiều, thưa giáo sư. - Robert gác máy. Vò bở rồi.
Robert, quay mấy số máy khác, và chỉ sau hai phút anh đã đang nói với tướng Hilliard.
- Tôi có hai việc phải báo cáo. - Robert nói. - Về nhân chứng ở London mà tôi đã nói với ngài.
- Sao?
- Anh ta đã chết trong một vụ cháy đêm qua.
- Thế hả? Thật tệ quá.
- Thưa ngài, vâng. Nhưng tôi tin rằng tôi đã phát hiện một nhân chứng khác. Tôi sẽ để ngài biết ngay sau khi kiểm tra lại.
- Tôi sẽ chờ báo cáo của ông, ông sĩ quan.
Tướng Hilhard đang báo cáo với Janus.
- Sĩ quan Bellamy đã phát hiện một nhân chứng nữa.
- Tốt. Nhóm công tác đang trở nên sốt ruột. Tất cả đều lo ngại rằng câu chuyện sẽ loang ra trước khi SDI đi vào hoạt động.
- Tòi sẽ sớm có những thông tin nữa cho ngài.
- Tôi không muốn thông tin, tôi muốn thấy những kết quả.
- Vâng, thưa ngài Janus.
° ° °
Platténstrasse, ở Munich, là một khu phố nhỏ, yên tĩnh với những ngôi nhà xây bằng gạch màu nâu xám xịt co cụm lại với nhau như thể để phòng vệ.
Ngôi nhà số 5 giống hệt với những ngôi nhà hàng xóm. Bên trong cổng là một dãy hộp thư. Một tấm biển nhỏ dưới một trong những hộp thư có ghi dòng chữ "Giáo sư Otto Schmidt". Robert bấm chuông.
Một người đàn ông cao, gầy với một mớ tóc bạc loà xoà mở cửa. Ông ta mặc một chiếc áo nhàu nhĩ, mồm ngậm chiếc tẩu. Robert không hiểu liệu ông ta tạo ra hình ảnh một giáo sư đại học mô phạm hay chính cái hình ảnh đó là tạo ra ông ta.
- Ông là giáo sư Schmidt?
- Phải!
- Tôi không biết liệu tôi có thể nói chuyện với ông một lát được không. Tôi ở…
- Chúng ta đã nói chuyện với nhau, - giáo sư Otto Schmidt nói. - Ông là người đã gọi điện thoại cho tôi sáng nay. Tôi là một chuyên gia trong lĩnh vực nhận biết giọng nói. Mời vào.
- Cám ơn ông.
Robert bước vào một căn phòng bề bộn sách vở. Trên các bức tường, từ sàn nhà lên tới trần là những giá sách đầy kín. Ở đâu cũng thấy sách trên bàn, trên sàn, trên ghế. Đặc điểm nổi bật trong căn trong căn phòng dường như là những việc làm chưa được nghĩ kỹ.
- Ông chẳng phải là từ một hãng du lịch Thuỵ Sĩ nào cả, có phải thế không hả?
- Ô tôi…
- Ông là người Mỹ.
- Vâng.
- Và cuộc viếng thăm nầy không liên quan gì đến cặp kính không hề bị mất của tôi.
- Ồ không, thưa ông.
- Ông quan tâm đến cái vật thể bay lạ mà tôi đã nhìn thấy. Đó là một cảnh tượng ghê sợ. Tôi đã luôn tin rằng có thể có những thứ đó, nhưng tôi không bao giờ nghĩ là tôi sẽ được chứng kiến.
- Hẳn phải là một cú sốc khủng khiếp.
- Đúng thế.
- Ông có thể kể cho tôi nghe chút gì về chuyện đó không?
- Nó, nó dường như vẫn hoạt động. Có một thứ ánh sáng lung linh bao quanh nó. Xanh da trời. Không có thể là hơi xám một chút. Tôi, tôi không chắc.
Anh nhớ lại lời mô tả của Mandel: "Nó liên tục thay đổi màu sắc. Trông nó thoáng xanh da trời… rồi lại xanh lá cây. Nó đã bị vỡ toang ra và tôi nhìn thấy được hai xác chết trong đó. Nhỏ… mắt to. Họ mặc thứ gì đó giống như một bộ quần áo bằng bạc vậy…"
- Ông có thể kể gì với tôi về những bạn đồng hành của ông không?
- Những người cùng đi với tôi trên chiếc xe bus ấy à?
- Vâng.
Vị giáo sư nhún vai.
- Tôi không biết gì về họ cả. Tất cả bọn họ đều là những người lạ. Khi đó tôi đang tập trung về một bài giảng mà tôi sẽ giảng vào sáng ngày hôm sau. Tôi rất ít để ý tới những hành khách khác.
Robert nhìn vẻ mặt ông ta, chờ đợi.
- Nếu như nó sẽ là có ích cho ông, - Vị giáo sư nói, - thì tôi có thể nói cho ông biết họ là người nước nào. Tôi dạy hoá học, nhưng có sở thích về nghiên cứu âm thanh.
- Bất kỳ những gì ông nhớ được đều đáng quý cả.
- Có một tu sĩ người Italia, một người Anh, một người Hungary, một người Mỹ nói giọng Texas, một cô gái Nga.
- Nga à?
- Phải. Nhưng cô ta không phải dân Mátxcơva. Theo giọng nói, tôi đoán cô ta ở Kiev, hoặc là rất gần đó.
Robert chờ đợi, nhưng chỉ còn có sự im lặng.
Ông không nghe thấy bất kỳ ai trong số họ nhắc tới tên hay nói chuyện về nghề nghiệp của họ à?
- Xin lỗi. Tôi đã nói rồi. Tôi đang suy nghĩ về bài giảng của tôi. Rất khó tập trung suy nghĩ. Người Mỹ nói giọng Texas và vị tu sĩ ngồi cùng với nhau. Người Mỹ đó nói luôn mồm. Đủ mọi thứ chuyện. Tôi không biết ông tu sĩ thậm chí có hiểu hay không.
- Ông tu sĩ…
- Ông ta nói giọng La Mã.
- Ông có thể nói thêm gì nữa về bất kỳ ai trong số họ không?
- Tôi sợ là không. - Vị giáo sư nhún vai. Ông ta hút một hơi thuốc. - Tôi lấy làm tiếc là không thể giúp gì cho ông.
Một ý nghĩ chợt đến với Robert.
- Ông nói ông là một nhà hoá học phải không nhỉ?
- Phải.
- Tôi không biết liệu ông có bằng lòng nhìn cái nầy một chút không, thưa giáo sư. - Robert thò tay vào túi và lôi ra mẩu kim loại mà Beckerman đã đưa cho anh. - Ông có thể bảo tôi cái nầy là cái gì được không ạ?
Giáo sư cầm cái mẩu kim loại từ tay Robert, và trong lúc xem xét nó, vẻ mặt ông ta chợt thay đổi.
- Anh, anh kiếm cái nầy ở đâu?
- Tôi sợ là tôi không thể nói được. Ông có biết nó là cái gì không?
Có vẻ như nó là một bộ phận của một chiếc máy phát.
- Ông có chắc thế không?
Ông ta lật lật miếng kim loại trong tay.
- Tinh thể nầy là chất dilithium. Rất hiếm. Thấy những vết khía nầy không? Chúng cho thấy miếng nầy được gắn vào một bộ phận lớn hơn. Bản thân miểng kim loại… Lạy Chúa, tôi chưa bao giờ trông thấy cả. - Giọng ông ta đầy xúc động. - Ông có thể đề cho tôi giữ nó trong vài ngày được không? Tôi muốn có những phân tích quang phổ về nó.
- Tôi e là không thể được, - Robert nói.
- Nhưng…
- Xin lỗi, - Robert cầm lại miếng kim loại.
Vị giáo sư cố giấu vẻ thất vọng.
- Thôi, ông có thể mang nó lại sau vậy. Sao ông không cho tôi danh thiếp của ông nhỉ. Nếu tôi còn nhớ thêm được gì nữa, tôi sẽ gọi cho ông.
- Có vẻ như tôi chẳng còn tấm nào ở đây cả. - Robert lục lọi trong túi một chút.
- Phải rồi, tôi cũng nghĩ là thế. - Giáo sư Schmidt thủng thẳng nói.
° ° °
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy đang trên máy.
- Đây ông sĩ quan? - Tướng Hilliard nhấc máy.
- Tên của nhân chứng mới nhất là giáo sư Schmidt. Ông ta sống ở số 5 Plattenstrasse, Munich.
- Cám ơn ông sĩ quan. Tôi sẽ thông báo với nhà chức trách Đức ngay lập tức. - Robert đã toan nói: "Tôi e rằng đó là nhân chứng cuối cùng mà tôi có thể tìm được", nhưng có điều gì đó đã chặn anh lại. Anh không muốn phải thú nhận sự thất bại. Vậy mà các dấu vết đã trở nên thật mờ nhạt. Một người Texas và một vị tu sĩ. Vị tu sĩ kia từ La Mã tới. Một thời gian. Cùng với cả triệu vị tu sĩ khác. Và không có cách nào để nhận dạng ông ta cả: Mình có một sự lựa chọn. - Robert nghĩ. - Mình có thể từ bỏ và trở về Washington, hoặc là mình có thể đi Rome và cố một lần cuối cùng…
° ° °
Trụ sở của Cục Bảo vệ Hiến Pháp, nằm ở trung tâm Berlin, trên đường Neumarkterstrasse. Đó là một toà nhà lớn màu xám không có gì đặc biệt, khó có thể phân biệt được với những toà nhà xung quanh.
Bên trong, trên tầng ba, sếp cơ quan, thanh tra Otto Joachim đang xem một bức điện. Ông ta đọc nó hai lần, rồi với tay nhấc chiếc điện thoại đỏ trên bàn.
° ° °
Ngày thứ sáu.
Munich, Đức.
Sáng hôm sau, trên đường đi đến phòng thí nghiệm hoá học, Otto Schmidt nghĩ lại câu chuyện trao đổi với người Mỹ tối hôm trước. Cái mẫu kim loại đó có thể từ đâu ra nhỉ? Một vật mà ông chưa bao giờ thấy. Và cái người Mỹ kia đã làm cho ông ta ngạc nhiên.
Ông ta nói là quan tâm tới những người khách đi trên chiếc xe bus. Vì sao? Bởi vì tất cả họ đều là những nhân chứng trước cái đĩa bay kia ư? Phải chăng họ sẽ được khuyến cáo là không được bàn tán? Nếu vậy thì vì sao người Mỹ kia đã không khuyến cáo mình?
Có chuyện gì lạ vậy, vị giáo sư kết luận. Ông ta vào trong phòng thí nghiệm, cởi áo khoác treo lên móc và mặc lên người cái áo choàng rỏi bước lại chiếc bàn nơi ông ta đã làm việc nhiều tuần nay với một thí nghiệm hoá học. Nếu thành công, ông ta nghĩ, điều nầy có thể có nghĩa là một giải Nobel. Ông ta nhấc cái cốc đựng nước tinh khiết và rót vào một bình chứa đựng một thứ chất lỏng màu vàng. Lạ nhỉ. Mình không nghĩ là nó lại có màu vàng sáng thế nầy.
Tiếng nổ thật là khủng khiếp. Căn phòng thí nghiệm nồ tung, và những mảnh thuỷ tinh cùng với những mảnh thịt người văng tung toé lên những bức tường.
Điện khẩn.
Tối mật.
BFV gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
Otto Schmidt đã bị thủ tiêu
Hết.
Robert không nghe được tin về cái chết của vị giáo sư. Anh đã có mặt trên một chuyến bay của hãng hàng không Alitalia, trên đường tới Rome.

Chương 23
Dustin Thornton bắt đầu cảm thấy bất an. Giờ đây ông ta có quyền lực và nó cứ như một thứ ma tuý lại muốn có thêm nữa. Bố vợ ông ta, Williard Stone, luôn hứa hẹn đưa ông ta vào một thế giới bí ẩn khép kín nào đó nhưng cho đến giờ lão vẫn chưa thực hiện lời hứa đó.
Một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, Thornton biết rằng thứ sáu nào bố vợ mình cũng biến mất. Thornton đã gọi điện xin ăn trưa với lão.
- Xin lỗi, - thư ký của Williard Stone trả lời, - nhưng hôm nay ngài Stone đi vắng.
- Ô chán quá. Thế trưa thứ sáu tới thì sao?
- Xin lỗi ông Thornton, thứ sáu tới ngài Stone cũng sẽ đi vắng.
Lạ nhỉ và thậm chí nó còn trở nên lạ hơn khi mà hai tuần sau đó Thornton cũng gọi lại và vẫn nhận được cùng một câu trả lời. Thứ sáu nào lão già cũng biến đi đâu thế nhỉ? Lão ta không phải là người say mê chơi gôn hay đam mê một thú vui nào cả.
Lý do hẳn là một người đàn bà. Vợ của Williard Stone ưa giao thiệp và rất giàu có. Bà ta là một phụ nữ đài các và cũng có tính cách mạnh mẽ hệt ông chồng. Bà ta không phải loại phụ nữ tha thứ được cho chồng về chuyện trăng hoa. Nếu lão ta đang có một vụ ngoại tình, Thornton nghĩ, điều đó có nghĩa là mình tóm được gáy lão. Ông ta hiểu là phải tìm ra cho bằng được.
5 giờ sáng ngày thứ sáu tiếp theo đó, Dustin Thornton đã ngồi sùm sụp sau tay lái của một chiếc Ford Taurus rất bình thường, đậu cách toà dinh thự sừng sững của Willard Stone nửa dãy phố. Đó là một buổi sáng lạnh giá và ảm đạm, và Thornton luôn tự hỏi ông ta đang làm gì ở đó. Có thể là có một lời giải thích hoàn toàn hợp lý nào đó cho cái hiện tượng kỳ cục nầy của Stone.
Mình đang phí thời gian, Thornton nghĩ. Nhưng có điều gì đó đã kìm chân ông ta lại.
Lúc 7 giờ, hai cánh cổng lớn mở ra và một chiếc xe xuất hiện. Ngồi sau tay lái là Williard Stone. Thay vì chiếc xe sang trọng thường dùng, lúc nầy lão ta đang ngồi trong một chiếc xe chở hàng nhỏ, màu đen mà đám gia nhân vẫn sử dụng. Thornton đột nhiên cảm thấy hồi hộp. Ông ta biết là mình đang phát hiện một chuyện gì đó. Người ta thường sống theo một khuôn phép riêng, và Stone đang phá vỡ cái khuôn phép ấy.
Phải là chuyện một người đàn bà.
Lái xe một cách thận trọng và giữ một khoảng cách khá xa chiếc xe chở hàng, Thornton bám theo ông bố vợ xuyên qua các đường phố Washington tới một con đường dẫn đi Arlington.
Mình phải thật tế nhị trong chuyện nầy, Thornton nghĩ. Mình không muốn làm quá mạnh. Mình sẽ thu thập tất cả các thông tin có thể có được về lão, và rồi mình sẽ lật quân bài. Mình sẽ nói với lão rằng mình chỉ quan tâm tới chuyện bảo vệ cho lão mà thôi. Lão sẽ hiểu. Lão chẳng bao giờ muốn có chuyện bê bối om sòm.
Dustin Thornton quá mải mê với những suy nghĩ đến nỗi suýt không rẽ theo Williard Stone. Họ đã tới một khu dân cư dành riêng. Chiếc xe hàng màu đen đột nhiẽn mất hút vào con đường nhỏ chạy dài trong bóng cây.
Dustin Thornton dừng xe, lựa chọn cách theo dõi tốt nhất. Liệu ông ta có nên chạm mặt với Williard trước sự không chung thuỷ của lão ta lúc nầy không? Hay nên đợi cho đến khi Stone đi khỏi và nói chuyện với người đàn bà kia trước đã? Hay nên yên lặng thu thập tất cả những thông tin cần thiết và rồi nói chuyện với ông bố vợ? Ông ta quyết định phải tìm hiểu cụ thể.
Thornton đậu xe ở một đường phụ và đi vòng theo con đường nhỏ ở phía sau ngôi nhà hai tầng kia. Một hàng rào gỗ bao quanh khu sân sau nhưng điều đó không có trở ngại gì. Thornton mở cổng và bước vào bên trong.
Ông ta đang đứng trước một khu vườn lớn, xinh đẹp và được chăm sóc chu đáo với ngôi nhà khuất phía sau.
Ông ta nhẹ nhàng đi dưới hàng cây chạy ngang bãi cỏ tới đứng bên cửa sau của ngôi nhà và tính toán bước đi tiếp theo. Ông ta cần có bằng chứng về chuyện đang xảy ra. Không có nó thì lão già sẽ cười vào mặt cho. Dù chuyện gì đang xảy ra bên trong kia thì lúc nầy thì cũng đều có thể là chìa khoá dẫn tới tương lai của ông ta. Phải tìm ra cho được.
- Rất nhẹ nhàng, Thornton thử mở cánh cửa sau.
Nó không được khoá. Ông ta lọt vào bên trong và thấy mình đang đứng trong một phòng bếp lớn kiểu cổ. Không có ai xung quanh cả. Thornton tiến đến bên cánh cửa phụ, nhẹ nhàng đẩy ra. Trước mặt ông ta là gian tiền sảnh lớn. Ở phía đầu kia là một cánh cửa đóng kín, có thể là dẫn tới một phòng thư viện. Thornton bước tới hết sức nhẹ nhàng. Ông ta đứng nép bên cánh cửa.
Không hề có tiếng động gì bên trong. Có thể là lão già đang ở trong phòng ngủ trên gác.
Thornton đẩy cửa ra. Ông ta đứng trước ngưỡng cửa, chết đứng. Có hơn một chục người đàn ông đang ngồi trong phòng, quanh một chiếc bàn lớn.
- Vào đi Dustin, - Williard nói. - Chúng tôi đang chờ anh đấy.

Chương 24
Tình hình ở Rome tỏ ra là khó khăn cho Robert, một cuộc thử thách tinh thần làm cho anh kiệt sức. Anh đã đi nghỉ tuần trăng mật ở đây với Susan, và ở đây cũng đầy những kỷ niệm. Rome đồng nghĩa với Roberto, người quản lý khách sạn Hassler cho mẹ anh, một người nặng tai nhưng có thể nhìn miệng người nói để hiểu với năm thứ tiếng. Rome có nghĩa là khu vườn của biệt thự D Este ở Tivoli, và niềm vui sướng của Susan trước một trăm dòng suối do con trai của Lucretia Borgia tạo nên. Rome là Otello, dưới chân. Những bậc thềm Tây Ban Nha, rồi Toà thánh Vatican và những bức bích hoạ nổi tiếng của Michelangelo. Rome là sự pha trộn giữa những giai điều nhạc du dương ở Tre Scalini cùng tiếng cười vui của Susan, và tiếng cô nói: "Robert, hãy hứa với em là chúng mình sẽ luôn hạnh phúc như thế nầy nhé".
Mình đang làm cái quái gì ở đây nhỉ? Robert băn khoăn. Mình không hề biết tí gì về vị tu sĩ kia, hay thậm chí là liệu ông ta có ở Rome hay không. Đã đến lúc nghỉ ngơi, về nhà và quên hết những thử nầy.
Nhưng có điều gì đó trong anh, một nét bướng bỉnh thừa kế từ một ông tồ nào đó đã chết từ lâu, ngăn không cho anh làm như vậy. Mình sẽ cố gắng một ngày nữa, Robert quyết định. Một ngày nữa thôi.
Sân bay Leonardo da Vinci thật đông người và đối với Robert thì dường như bất kỳ ai cũng có thể là một tu sĩ. Anh đang tìm kiếm một tu sĩ trong thành phố có, bao nhiêu? Năm mươi nghìn tu sĩ phải không nhỉ? Hay một trăm nghìn? Trên taxi đến khách sạn Hassler, anh chú ý tới những đám đông các tu sĩ mặc áo choàng đi trên đường phố. Không thể được, Robert nghĩ. Mình hẳn là điên thật rồi.
Anh được viên phó quản lý chào đón ở tiền sảnh khách sạn Hassler.
- Ông Bellamy. Thật mừng là lại được thấy ông.
- Cám ơn. Pietro. Ông có phòng cho tôi nghỉ lại một đêm không?
- Cho ông, tất nhiên rồi. Luôn luôn sẵn sàng.
Robert được đưa đến một phòng mà anh đã từng ở.
- Nếu có cần gì xin ông cứ…
Tôi cần một điều kỳ diệu khốn kiếp, Robert nghĩ.
Anh ngả người nằm xuống, cố tĩnh tâm.
Vì sao một tu sĩ ở Rome lại đi Thuỵ Sĩ nhỉ? Có mấy khả năng. Ông ta có thể đi nghỉ, hoặc có thể dự một hội nghị tôn giáo. Ông ta là vị tu sĩ duy nhất trên chiếc xe bus đó. Điều đó có nghĩa gì nhỉ? Không gì cả. Ngoài một điều là ông ta không cùng đi với nhóm, có thể như vậy thôi. Bởi thế có thể là một chuyến đi thăm bạn bè hay gia đình của ông ta. Hoặc cũng có thể là ông ta đi cùng một nhóm, và riêng ngày hôm đó thì họ có những chương trình riêng lẻ. Những ý nghĩ của Robert cứ quẩn quanh trong một cái vòng tuyệt vọng.
Hãy trở lại từ đầu. Ông tu sĩ nầy đã tới Thuỵ Sĩ như thế nào nhỉ? Nhiều khả năng là ông ta không có một cái xe ô tô riêng. Ai đó có thể cho ông ta đi nhờ, nhưng khả năng nhiều hơn là việc ông ta đã đi bằng máy bay tầu hoả hoặc xe bus. Nếu là đi nghỉ thì ông ta hẳn đã không có nhiều thời gian. Bởi vậr hãy giả thiết rằng ông ta đã đi bằng máy bay.
Cách lập luận đó chẳng dẫn đến đâu cả. Các hãng hàng không không ghi lại nghề nghiệp của hành khách. Vậy thì vị tu sĩ kia cũng chỉ có một cái tên như bao nhiêu những cái tên khác trong danh sách hành khách. Nhưng nếu ông ta là thành viên của một nhóm…
° ° °
Toà thánh Vatican, nơi ở chính thức của Giáo hoang, vươn lên một cách uy nghi trên đồi Vatican, bên bờ Tây sông Tiber, phía tây bắc thành Rome. Mái vòm cao của nhà thờ Basilica, do Michellangelo thiết kế, đứng sừng sững trên quảng trường rộng lớn, đêm ngày đầy những khách thuộc đủ mọi tín ngưỡng.
Quảng trường nầy được bao quanh bởi những chiếc cột trụ hình bán nguyệt được xây dựng xong vào năm 1667 dưới bàn tay của Bernini, với 284 chiếc cột đá hoa cương xếp thành bốn hàng và trên đó là một bao lớn đỡ 140 bức tượng. Robert đã thăm nơi nầy tới cả chục lần, nhưng lần nào anh cũng cảm thấy nghẹt thở trước quang cảnh ở đó.
Tất nhiên, phía trong Toà thánh, quang cảnh còn ngoạn mục hơn nữa. Nhà thờ Sistine: toà bảo tàng và Cung Sala đẹp đến mức không thể tả xiết.
Nhưng vào ngày hôm đó, Robert đã đến đây không phải để ngắm cảnh: Anh tìm được Phòng quan hệ với công chúng của Toà Thánh ở khu dành cho những việc liên quan đến bên đời. Người đàn ông trẻ tuổi ngồi sau bàn rất lịch thiệp.
- Tôi có thể giúp ông không ạ?
Robert đưa nhanh tấm thẻ ra.
- Tôi ở tạp chí Time. Tôi đang làm một bài viết về một số giáo sĩ đã tham dự một hội nghị tôn giáo ở Thuỵ Sĩ cách đây một hai tuần gì đó. Tôi đang cần những tư liệu về thân thế.
Người đàn ông kia nhìn anh một thoáng, rồi chau mầy.
- Chúng tôi có một số giáo sĩ dự một hội nghị ở Venise tháng trước. Gần đây thì không có giáo sĩ nào của chúng tôi đến Thuỵ Sĩ cả. Xin lỗi, tôi sợ là tôi không thể giúp gì cho ông.
- Việc nầy thật rất quan trọng, - Robert vội vã nói. - Làm thế nào để tôi có thể có những thông tin đó được?
- Cái nhóm mà ông tìm kiếm… họ đại diện cho dòng tu nào thế? Ông nói gì ạ? Đạo Thiên chúa có rất nhiều dòng: Dòng Francis, Marist, Benetdictine, Trappist, Jesuit, Dominic và một số dòng khác nữa.
- Tôi khuyên ông đến dòng tu của họ và hỏi ở đó xem.
Chỗ đó là chỗ quái nào? Robert nghĩ.
- Ông có gợi ý nào khác không hả?
- Tôi e là không.
Mình cũng thế, Robert nghĩ. Mình đã tìm thấy đồng cỏ. Mình không thể nào tìm được cái kim.
Anh rời khỏi Toà Thánh và lang thang trên các đường phố của thành Rome, mải mê với khó khăn của mình mà không hề để ý đến những người xung quanh đến quảng trường Appolo, anh ngồi vào một tiệm cà phê ngoài trời và gọi một ly Cinzano. Ly rượu vẫn ở yên trước mặt anh, không hề được động.
Với tất cả những gì anh đã biết thì vị tu sĩ kia có thể vẫn còn ở Thuỵ Sĩ. Ông ta thuộc dòng tu nào?
Mình không biết. Và mình chỉ có mỗi lời vị giáo sư kia nói rằng ông ta là người La Mã.
Anh uống một ngụm.
Có một chuyến bay đi Washington vào lúc chiều tối. Mình sẽ đi chuyến đó, Robert quyết định: Mình bỏ cuộc thôi. Ý nghĩ đó làm anh bực tức. Nhảy ra, nhưng không phải là cười mà là khóc. Đã đến lúc phải đi rồi.
- Tiền nầy.
- Thưa ngài, vâng.
Robert đưa mắt bâng khuâng nhìn quanh quảng trường. Phía bên đối diện với tiệm cà phê, một chiếc xe bus đang lấy khách. Trong dãy hành khách có hai tu sĩ, Robert nhìn hành khách đưa tiền vé và rồi đi xuống phía cuối xe.
Khi hai tu sĩ tới chỗ người bán vé, họ mỉm cười với ông ta và ngồi xuống ghế mà không trả tiền.
- Séc của ngài, thưa ngài, - người bồi bàn nói.
Thậm chí Robert không nghe thấy anh ta. Đầu óc anh đang quay cuồng. Nơi đây, ngay trong lòng nhà thờ Thiên Chúa, các tu sĩ có những đặc quyền nhất định. Có thể có thế thôi…
° ° °
Văn phòng của hãng Hàng không Thuỵ Sĩ nằm ở số 10 đường P. chỉ cách đường Veneto khoảng 5 phút. Robert được một người đàn ông ngồi sau dãy bàn dài tiếp.
- Xin cho được gặp ông giám đốc?
- Tôi là giám đốc đây. Tôi có thể giúp gì ông?
- Michael Hudson, cảnh sát quốc tế. - Robert chìa ra một tấm thẻ.
- Tôi có thể làm gì cho ông được, ông Hudson?
- Một số hãng hàng không quốc tế đang phàn nàn về việc giảm giá vé bất hợp pháp ở châu Âu, và ở Rome nói riêng. Thể theo công ước quốc tế…
- Ông Hudson, tôi xin lỗi, nhưng Hàng không Thuỵ Sĩ không có cho giảm giá. Mọi người đều phải trả theo giá đã công bố…
- Tất cả hả?
- Tất nhiên là trừ những nhân viên của hãng.
- Các ông không giảm giá cho các giáo sĩ à?
- Không. Với hãng nầy, họ phải trả cả vé.
- Cám ơn ông đã dành thời giờ. - Và Robert bước ra.
° ° °
Chỗ dừng tiếp theo - Và cũng là hy vọng cuối cùng của anh - là hãng Alitalia.
- Có chuyện giảm giá bất hợp pháp không? - Ông giám đốc sững người nhìn Robert, kinh ngạc. - Chúng tôi chỉ giảm giá cho nhân viên của chúng tôi.
- Các ông không giảm giá cho các tu sĩ à?
Gương mặt ông giám đốc sáng lên.
- A, chuyện đó thì có: Nhưng đó không phải là bất hợp pháp. Chúng tôi đã có những thoả thuận với bên Nhà thờ.
Tim Robert rộn lên.
- Vậy đó nếu như một tu sĩ muốn bay đi từ Rome, chẳng hạn như đến Thuỵ Sĩ, thì ông ta sẽ đến hãng nầy chứ?
- Ồ, vâng, như vậy ông ta sẽ đỡ tiền hơn.
Robert nói:
- Để có thông tin mới nhất cho các máy tính của chúng tôi, sẽ rất có ích nếu như ông có thể cho tôi biết bao nhiêu tu sĩ đã bay đến Thuỵ Sĩ trong hai tuần lễ qua. Ông có hồ sơ chứ?
- Vâng, tất nhiên. Để dễ cho chuyện thuế má.
- Tôi thật sự cần những thông tin đó.
- Ông muốn biết có bao nhiêu tu sĩ đã bay đi Thuỵ Sĩ trong hai tuần qua phải không ạ?
Đúng. Zurich hoặc Geneva.
- Xin đợi cho một chút. Tôi sẽ gọi từ máy tính ra.
Năm phút sau, ông giám đốc quay lại với một bản in từ máy tính.
- Trong hai tuần qua chỉ có duy nhất một tu sĩ bay bằng Alitalia đi Thuỵ Sĩ. - ông ta xem tờ giấy trong tay. - Ông ta rời khỏi Rome vào ngày 7, đi Zurich. Ông ta đăng ký bay trở về hai ngày sau đó.
- Tên ông ta? - Robert hít một hơi sâu.
- Cha Rometo Patrini.
- Địa chỉ?
Ông ta lại nhìn xuống.
- Ông ấy sống ở Orvieto. Nếu ông cần gì thêm. - Ông ta ngước nhìn lên, Robert đã đi khỏi.

Chương 25
Ngày thứ bảy.
Orvieto, Italia
Anh dừng xe tại một chỗ đỗ bên lề đường 71, và phía bên kia thung lũng, trên sười núi, là cái thành phố đó với cảnh quan tuyệt đẹp Đó là trung tâm Etruscan cổ với một nhà thờ lớn nổi tiếng thế giới, dăm nhà thờ khác và một tu sĩ, người đã chứng kiến vụ tai nạn của một vật thể bay lạ.
Thành phố vẫn nguyên vẹn qua năm tháng, với những đường phố lát đá và những ngôi nhà cổ duyên dáng, cùng với khu chợ trời nơi những người nông dân mang bán gà và rau quả tươi.
Robert tìm được một nơi để đỗ xe trên quảng trường Duomo. Anh băng ngang quảng trường và đi vào trong nhà thờ lớn Trong nhà thờ vắng ngắt, trừ một giáo sĩ vừa rời khỏi nơi điện thờ.
° ° °
- Xin lỗi Cha, - Robert nói. Tôi đang tìm kiếm một tu sĩ ở thành phố nầy: người đã ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước. Có thế Cha…
Vị tu sĩ sững lại, mặt đầy vẻ khó chịu.
- Tôi không thể nói với ông chuyện nầy.
- Tôi không hiểu. Tôi chỉ muốn tìm.
Robert ngạc nhìn ông ta ngạc nhiên.
- Ông ấy không ở nhà thờ nầy. Ông ấy từ nhà thờ San Giovenale.
Và vị tu sĩ đi nhanh ngang qua Robert. Tại sao ông ta lại thiếu thiện chí thế nhỉ?
° ° °
Nhà thờ San Giovenale nằm ở khu Vecchio, một khu vực đầy màu sắc với những tháp chuông và những nhà thờ thời Trung cổ. Một tu sĩ trẻ tuổi đang chăm sóc mảnh vườn cạnh đó. Ông ta ngước nhìn lên khi Robert lại gần.
- Xin chào ông.
- Xin chào. Tôi đang tìm kiếm một tu sĩ, người đã ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước. Ông ấy…
- Phải, phải. Tội nghiệp Cha Patrini. Một điều khủng khiếp đã xảy đến với ông ấy.
- Tôi không hiều. Chuyện khủng khiếp gì vậy?
- Nhìn thấy cỗ xe của quỷ dữ. Đó là điều quá sức chịu đựng của ông ấy. Ông ấy đã bị một cơn sốc thần kinh, thật tội nghiệp.
- Tôi rất lấy làm tiếc về điều đó, - Robert nói. - Bây giờ ông ấy ở đâu? Tôi muốn nói chuyện với ông ấy.
- Ông ấy đang ở bệnh viện gần quảng trường San Patrizio, nhưng tôi ngờ là các bác sĩ sẽ không cho phép ai thăm ông ấy đâu.
Robert đứng đó, bối rối. Chẳng mấy ích lợi gì với một người đang bị thần kinh.
- Tôi hiểu. Cám ơn ông rất nhiều.
° ° °
Bệnh viện đó là một toà nhà một tầng khiêm nhường ở gần ngoại ô thành phố. Anh dừng xe và bước vào trong một hành lang nhỏ. Có một y tá ngồi sau bàn đón tiếp.
- Xin chào, - Robert nói. - Tôi muốn gặp Cha Patrini.
- Rất tiếc, nhưng… điều đó là không thể được. Ông ấy không thể nói gì với bất kỳ ai.
Lúc nầy, Robert quyết không để bị chặn lại. Anh phải lần theo dấu vết mà giáo sư Schmidt đã trao cho anh.
- Cô không hiểu, - Robert nhẹ nhàng nói. - Cha Patrini yêu cầu gặp tôi. Tôi đã từ Orvieto đến đây theo yêu cầu của ông ấy.
- Ông ấy yêu cầu gặp ông?
- Phải. Ông ấy viết thư sang Mỹ cho tôi. Tôi đã đi ngần ấy dặm đường tới đây chỉ để gặp ông ấy thôi.
Cô y tá lưỡng lự.
- Tôi không biết nói thế nào. Ông ấy rất nặng.
- Tôi tin chắc là ông sẽ vui hơn khi thấy tôi.
- Bác sĩ không có ở đây… - Cô quyết định. - Thôi được ông có thể tới phòng ông ấy, thưa ông, nhưng ông chỉ được phép ở đó vài phút thôi đấy.
- Tôi cũng chỉ cần có thế thôi, - Robert nói.
- Ông đi lối nầy.
Họ đi theo một hành lang ngắn, hai bên là những căn phòng nhỏ, gọn gàng. Cô y tá dẫn Robert vào một trong những phòng đó.
- Chỉ một vài phút thôi nhé, thưa ông.
- Cảm ơn.
Robert bước vào căn phòng nhỏ bé. Người đàn ông đang nằm trên giường trông như một hình nhân nhợt nhạt trên tấm vải trải giường trắng toát. Robert lại gần ông ta và nhẹ nhàng nói:
- Thưa Cha…
Vị tu sĩ quay mặt để nhìn lên anh, và Robert chưa bao giờ nhìn thấy một nỗi thống khổ nào như thế trong mắt một con người.
- Thưa Cha, tên tôi là…
Ông ta túm lấy cánh tay Robert.
- Giúp tôi với, - Vị tu sĩ lầm bầm, - Ông phải giúp tôi. Lòng tin của tôi đã mất. Cả đời tôi, tôi đã thuyết giảng về Chúa và Đức Tin, và bây giờ tôi biết là không có Chủa. Chỉ có quỷ sứ và nó đã đến để hại chúng ta…
- Thưa Cha, nếu Cha…
- Chính mắt tôi đã nhìn thấy mà. Có hai tên trong cái xe của quỷ sứ, nhưng sẽ còn nữa. Ôi! Những tên khác sẽ kéo đến. Hãy chờ xem. Tất cả chúng ta sẽ bị đày xuống địa ngục.
- Xin Cha hãy nghe tôi. Cái mà Cha nhìn thấy không phải là quỷ sứ. Đó là một con tàu vũ trụ mà.
Vị tu sĩ buông tay Robert và đột nhiên nhìn Robert với vẻ tỉnh táo hơn.
- Ông là ai? Ông muốn gì hả?
- Tôi đến đây để hỏi Cha về chuyến xe bus mà Cha đã đi ở đất Thuỵ Sĩ. - Robert nói.
- Chiếc xe bus. Giá mà tôi đã đừng đến gần nó. - Vị tu sĩ lại trở nên kích động.
Robert không muốn thúc ép ông ta, nhưng anh không có cách nào khác.
- Cha đã ngồi bên một người đàn ông trên chiếc xe đó. Một người Texas. Cha đã nói chuyện nhiều với người đó, Cha nhớ không?
- Một câu chuyện. Người Texas. Có, tôi nhớ.
- Ông ta có nói với Cha là ông ta sống ở đâu không?
- Phải, tôi có nhớ ông ta. Ông ta từ Mỹ đến.
- Đúng. Từ Texas. Ông ta có nói với Cha nhà ông ta ở đâu không?
- Có, có, ông ta có nói với tôi.
- Ở đâu thế, Cha? Nhà ông ta ở đâu?
- Texas. Ông ta nói về Texas.
- Đúng thế. - Robert gật đầu vẻ khuyến khích.
- Chính mắt tôi đã nhìn thấy chúng. Tôi mong Chúa đã làm cho tôi bị mù. Tôi…
- Thưa Cha, người đàn ông từ Texas. Ông ta có nói với Cha ông ấy ở đấy không? Ông ta có nhắc tới một cái tên nào không?
- Texas, có. Ponderosa.
Robert vẫn cố gắng.
- Đó là trên tivi. Đây là người đàn ông thật sự cơ mà. Ông ta ngồi cạnh Cha trên…
Vị tu sĩ lại hôn mê.
- Chúng đang đến đấy. Trận quyết chiến thiện ác đây rồi. Kinh Thánh nói dối. Chính quỷ dữ sẽ xâm chiếm trái đất nầy. - Lúc nầy ông ta đang hét lên thật to. - Nhìn kìa. Nhìn kìa. Tôi có thể nhìn thấy chúng.
Cô y tá vội vã bước vào. Cô nhìn Robert vẻ không bằng lòng.
- Ông phải ra đi thôi, thưa ông.
- Tôi cần một phút nữa thôi.
- Không, thưa ông. Đủ rồi.
Robert nhìn vị tu sĩ một lần cuối. Ông ra vẫn lảm nhảm rời rạc. Robert quay người bước đi. Không còn có thể làm gì hơn được nữa. Anh đã cố hết sức để vị tu sĩ dẫn dắt anh đến người Texas kia, nhưng anh đã thua.
Robert trở ra xe và chạy về Rome. Rốt cuộc thế là xong. Những dấu vết duy nhất mà anh đã bỏ lại - nểu chúng có thể được coi là những dấu vết - là lời nhắc đến một phụ nữ Nga, một người Texas, và một người Hungary. Nhưng không có cách nào để tìm ra họ được. Nước cờ tàn. Thật là buồn khi đã đi xa đến thế nầy để rồi lại bị chặn lại. Giá mà ông tu sĩ tỉnh táo đủ lâu để cung cấp được cho anh vài thông tin cần thiết. Chỉ một chút nữa. Ông tu sĩ đã nói gì nhỉ?
Ponderosa. Ông tu sĩ già đã xem tivi quá nhiều và trong cơn mê sảng, rõ ràng là ông ta đã lẫn người Texas kia vào chương trình "Bonanza" của một đạo diễn nổi tiếng trên tivi. Ponderosa, nơi gia đình h bí ẩn Cartwirght sinh sống. Ponderosa. Robert giảm ga và từ từ dừng lại bên đường, những ý nghĩ vùn vụt trong đầu anh. Anh quay ngược xe lại và lao nhanh về hướng Orvieto.
Nửa giờ sau, Robert đang nói chuyện với người chủ quán của một quán nhỏ ở quảng trường Republica.
- Các ông có một thành phố thật đẹp. - Robert nói. - Thật thanh bình.
- Ồ vâng, thưa ông. Chúng tôi hoàn toàn hài lòng với nơi đây. Ông đã bao giờ đến Italia trước đây chưa?
- Tôi có một phần của tuần trăng mật ở Rome.
Robert, anh đã làm cho tất cả những mơ ước của em trở thành sự thật. Từ hồi em còn là một con bé con, em đã muốn được đến Rome đấy?
- À Rome. Quá lớn. Quá ồn ào.
- Tôi công nhận.
- Ở nơi đây, chúng tôi sống cuộc sống bình dị nhưng chúng tôi hạnh phúc.
Robert bình thản nói:
- Tôi để ý thấy trên nhiều mái nhà ở đây có ăngten tivi.
- Ồ vâng, đúng thế. Chúng tôi hoàn toàn theo kịp thời đại trong lĩnh vực đó.
- Cái đó thì rõ. Thành phố nầy nhận được bao nhiêu kênh vô tuyến?
- Duy nhất chỉ một.
- Tôi nghĩ là các ông có khá nhiều chương trình tivi của Mỹ chứ?
- Không, không. Đây là một kênh của nhà nước. Ở đây chúng tôi chỉ có những chương trình được thực hiện ở Italia thôi.
- Cám ơn. Trúng rồi.
° ° °
Robert đặt điện thoại gọi cho Đô đốc Whittaker.
Một thư ký trả lời máy.
- Văn phòng Đô đốc Whittaker đây.
Robert có thể hình dung ra căn phòng. Nó thường là một chỗ kín đáo khuất mắt dành cho những người hết thời mà chính phủ không còn sử dụng vào việc gì được nữa.
- Xin cho tôi được nói chuyện với ngài Đô đốc? Sĩ quan Bellamy đây.
- Xin ông chờ một chút, ông chỉ huy.
Robert băn khoăn liệu có còn ai liên hệ gì nữa với Đô đốc không khi mà giờ đây, vị Đô đốc một thời đầy quyền lực kia đã là một thành viên của đội quân về vườn. Có thể là không.
- Robert, rất mừng là anh gọi lại. - Giọng ông già có vẻ mệt mỏi. - Anh đang ở đâu thế?
- Thưa ngài, tôi không thể nói được.
Một thoáng ngập ngừng.
- Tôi hiểu. Tôi có thể lâm gì cho anh không đây?
- Có, thưa ngài. Việc nầy thật bất tiện vì tôi đà được lệnh không tiếp xúc với bất kỳ ai. Nhưng tôi cần được giúp đỡ. Tôi không biết ngài có thể kiểm tra một việc cho tôi được không?
- Chắc chắn là tôi có thể cố gắng. Anh muơn biết gì nào?
- Tôi cần biết liệu có một cái trại đâu đó ở Texas có tên là Ponderosa không?
- Như trong chương trình Bonanza ấy à?
- Vâng, thưa ngài.
- Tôi có thể làm được, Tôi sẽ liên lạc với anh thế nào?
- Thưa Đô đốc, tôi nghĩ tốt hơn là tôi sẽ gọi lại cho ngài.
- Phải. Cho tôi một hoặc hai tiếng nhé. Tôi sẽ giữ việc nầy chỉ có hai chúng ta biết thôi.
- Cảm ơn ngài.
Dường như Robert cảm thấy sự mệt mỏi đã biến mất trong giọng nói của ông già. Ít nhất thì ông cũng đã được yêu cầu làm một việc gì đó, cho dù rằng đó chỉ bình thường là việc tìm ra một cái trang trại.
Hai tiếng sau, Robert gọi lại cho Đô đốc Whittaker.
- Tôi đang đợi anh đây, - Vị Đô đốc nói. Trong giọng ông có vẻ hàl lòng. - Tôi đã có thông tin mà anh muốn.
- Và sao? - Robert nín thở.
- Có một cái trại Ponderosa ở Texas. Nó ở ngay phía ngoài Waco. Chủ của nó là một ông Dan Wayne nào đó.
Robert thở ra nhẹ nhõm.
- Cám ơn ngài rất nhiều, thưa đô đốc, - Robert nói. - Tôi nợ ngài một bữa tối khi nào tôi trở về.
- Robert, tôi mong ngóng dịp đó.
Cú điện thoại tiếp theo của Robert là gọi cho tướng Hilliard.
- Tôi đã phát hiện một nhân chứng khác ở Italia. Cha Patrini.
- Một tu sĩ à?
- Vâng. Ở Orvieto. Ông ta đang nằm viện, rất nặng. Tôi e là giới chức trách Italia sẽ không thể nói gì được với ông ta.
- Tôi sẽ chuyển lời ông. Cảm ơn, ông sĩ quan.
Hai phút sau, tướng Hilliard đã đang nói chuyện điện thoại với Janus.
- Tôi vừa nghe sĩ quan chi huy Bellamy báo cáo.
- Nhân chứng mới nhất là một tu sĩ. Một cha Patrini nảo đó ở Orvieto.
- Lo chuyện đó đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc SIFAR.
Không trích chép.
Một bản duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận thế.
5. Cha Patrini - Orvieto.
Hết điện.
Trụ sở SIFAR nằm trên đường Pineta, ở rìa ngoại ô phía nam thành Rome, trong một khu vực bao bọc bởi những nhà trại. Điều duy nhất có thể làm cho người qua đường chú ý tới toà nhà bằng đá trông đầy vẻ công nghiệp, bình thường kia với haỉ khối nhà lớn là bức tường cao vây quanh, trên có chăng dây thép gai và ở mỗi góc đều có một trạm gác. Nằm ẩn trong một khu quân sự, nó là một trong những cơ quan an ninh bí mật nhất trên thế giới mà người ta ít biết đến nhất. Có những tấm biển xung quanh khu nhà, trên ghi dòng chữ: "Không bước qua giới hạn nầy".
Trong một căn phòng kiểu Spartan trên tầng hai của toà nhà chính, đại tá Francesco Cesar đang xem bức điện khẩn mà ông ta vừa nhận được. Viên đại tá ở trạc tuổi ngoài năm mươi, với một vóc người khoẻ mạnh và gương mặt rỗ, lì lợm. Ông ta đọc bức điện đến lần thứ ba.
Vậy là sau cùng Chiến dịch Ngày Tận thế đã đang diễn ra. Thật may là chúng ta đã chuẩn bị cho điều nầy. Cesar nghĩ. Ông ta nhìn xuống bức điện một lần nữa. Một tu sĩ.
° ° °
Đã quá nửa đêm khi một bà xơ đi ngang qua phòng của các y tá trực đêm tại cái bệnh viện nhỏ ở Orvieto.
- Tôi đoán là bà ấy đang đến gặp bà Fillipi, - Cô y tá Tomasino nói.
- Hoặc bà ấy, hoặc ông già Rigano. Cả hai đều đang nguy kịch lắm rồi.
Bà xơ kia lặng lẽ đi vòng qua các góc nhà và bước thẳng vào phòng của vị tu sĩ. Ông ta đang ngủ vẻ yên ả, hai bàn tay gấp lại để trên ngực như thể đang cầu nguyện. Ánh trăng xuyên qua tấm rèm cửa, tạo thành một vệt sáng ngang mặt vị tu sĩ.
Bà xơ lấy từ dưới áo ra cái hộp nhỏ. Một cách thận trọng, bà ta lấy ra chuỗi hạt thuỷ tinh rất đẹp và để nó vào trong lòng hai bàn tay ông tu sĩ già.
Trong khi sửa lại những hạt thuỷ tinh cho ngay ngắn, bà ta dùng một hạt quệt nhanh lên ngón tay cái của ông. Một vết xước mờ xuất hiện. Bà xơ lấy ra một cái lọ bé xíu có đầu nhỏ giọt và cẩn thận nhỏ ba giọt lên chỗ vết xước kia.
Chỉ cần vài phút để cái độc tố chết người kia phát huy tác dụng. Bà xơ thở dài trong khi làm dấu thánh trước người đã chết. Rồi bà bỏ đi, lặng lẽ như lúc đến.
Điện khẩn.
Tối mật.
SIFAR gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
5. Cha Patrini - Orvielo đã bị thủ liêu.
Hết điện.

Chương 26
Frank Johnson được lựa chọn bởi lẽ ông ta đã từng là một lính Mũ nồi xanh ở Việt nam và được đồng đội của ông ta gọi là Máy giết người. Ông ta thích giết chóc. Có động cơ làm việc và rất thông minh.
- Hoàn toàn phù hợp với chúng ta, - Janus nói. - Tiếp xúc với ông ta một cách thận trọng. Tôi không muốn để mất người nầy.
Cuộc gặp đầu tiên diễn ra trong trại lính. Một đại uý đang nói chuyện với Frank Johnson.
- Ông không phiền muộn gì về chính phủ của chúng ta à? - Viên đại uý hỏi. - Nó được điều hành bởi một nhúm những kẻ yếu đuối đang phung phí nguồn tài lực. Đất nước nầy cần có sức mạnh hạt nhân, nhưng những chính trị gia quỷ tha ma bắt kia đang ngăn chặn chúng ta xây dựng những nhà máy mới. Chúng ta lệ thuộc bọn Ảrập khốn kiếp về dầu lửa và chính phủ sẽ cho phép khai thác dầu ở ngoài khơi bờ biển chúng ta chứ? Ồ, không. Họ lo lắng cho những đàn cá hơn là cho chúng ta. Ông có nghĩ gì về chuyện đó không?
- Tôi hiểu ý ông, - Frank Johnson nói.
- Tôi biết là ông hiểu bởi vì ông có đầu óc. Viên đại uý vừa nói vừa quan sát vẻ mặt Johnson. - Nếu như Quốc hội không làm gì để cứu vớt đất nước của chúng ta thì một số nào đó trong chúng ta sẽ phải làm gì đó.
Trông Frank Johnson có vẻ lúng túng.
- Một số trong chúng ta à?
- Phải. - Bây giờ thế là đủ rồi, viên đại uý nghĩ. - Chúng ta sẽ nói về chuyện đó sau.
Buổi nói chuyện sau đi vào việc cụ thể hơn.
- Có một nhóm những người yêu nước muốn bảo vệ thế giới của chúng ta, ông Frank ạ. Họ là những vị có quyền lực lớn. Họ đã thành lập một Uỷ ban. Uỷ ban nầy có thể phải vượt qua một số đạo luật nào đó để công việc của nó đạt hiệu quả, nhưng mà sau cùng, thì điều đó cũng đáng giá. Ông có quan tâm không?
- Tôi rất quan tâm. - Frank Johnson mỉm cười.
Đó là lúc bắt đầu. Buổi gặp sau diễn ra ở Ottawa, Canada, và Frank Johnson đã gặp một số thành viên trong Uỷ ban nầy… Họ đại diện cho những nhóm quyền lợi đầy thế lực ở chừng một chục nước.
- Chúng ta được tổ chức tốt, - một thành viên giải thích với Frank Johnson. - Chúng ta có một hệ thống chỉ huy nghiêm ngặt. Có các Phòng Tuyên truyền, Tuyển chọn, Chiến thuật, Liên lạc… và một Đội biệt kích.
Ông ta nói tiếp.
- Gần như tất cả các tổ chức tình báo trên thế giới là một bộ phận của nó.
- Ý ông nói là những người đứng đầu của…?
- Không, không phải là những người đứng đầu.
- Các cấp phó. Những người trực tiếp biết chuyện gì đang xảy ra, và bỉết rõ nguy cơ nào mà các nước đang gặp phải.
° ° °
Các cuộc họp diễn ra ở mọi nơi trên thế giới - Thuỵ Sĩ, Marốc, Trung Quốc, - Và Johnson có mặt đầy đủ.
Đó là sáu tháng trước lúc đại tá Johnson gặp Janus.
Viên tướng đã cho triệu tập ông ta.
- Tôi mới nhận được nhưng báo cáo rất tốt đẹp về ông, đại tá.
- Tôi ưa thích công việc của mình, - Frank Johnson mỉm cười.
- Tôi cũng nghe như thế. Ông ở một vị trí rất thuận lợi để có thể giúp đỡ chúng tôi.
Frank Johnson ngồi thẳng người lên hơn.
- Tôi sẽ làm bất cứ việc gì có thể được.
- Tốt. Ở Trang trại, ông phụ trách việc giám sát đào tạo các điệp viên bí mật cho nhiều cơ quan khác nhau?
- Đúng thế.
- Và ông biết họ cùng những khả năng của họ.
- Rất tường tận.
- Điều tôi muốn ông làm là, - Janus nói, - tuyển chọn những người nào mà ông cảm thấy sẽ có ích nhất cho tổ chức của chúng ta. Chúng ta chỉ quan tâm đến những người tốt nhất.
- Đó là việc dễ dàng, - đại tá Johnson nói. - Không có vấn đề gì - Ông ta thoáng lưỡng lự. - Tôi băn khoăn…
- Gì vậy?
- Tôi có thể làm việc đó bằng tay trái của mình. Tôi thật sự muốn làm hơn thế, một việc gì đó lớn hơn. - Ông ta dướn mình về phía trước. - Tôi có nghe nói về Chiến dịch Ngày Tận thế. Đó mới chính là sân của tôi. Tôi muốn được tham gia, thưa ngài.
Janus ngồi nhìn ông ta hồi lâu. Rồi gật đầu.
- Được ông vào cuộc rồi đó.
- Cảm ơn ngài. - Johnson mỉm cười. - Ngài sẽ không phải ân hận gì.
Đại tá Frank Johnson sung sướng rời khỏi cuộc gặp.
Bây giờ thì ông ta thừa để cho họ thấy ông ta có thể làm được những gì.

Chương 27
Ngày thứ tám.
Waco. Texas.
Dan Wayne có một ngày không vui. Mà chính xác thì là một ngày vô cùng tệ hại. Ông vừa trở về từ toà án quận Waco, nơi ông phải đối mặt với các thủ tục về vỡ nợ. Vợ ông dan díu với tay bác sĩ trẻ của bà ta và đang làm thủ tục ly hôn ông với mục đích kiếm được một nữa tất cả những gì mà ông có (điều đó có nghĩa là không gì cả, như ông đã quả quyết với luật sư của bà ta). Và ông sẽ phải mất một trong những con bò đấu có hạng của mình. Dan Wayne cảm thấy số mệnh thật đen đủi. Ông đã không làm gì để đến nỗi phải chịu tất cả những chuyện nầy. Ông là một người chồng tốt, một chủ trại giỏi giang. Ông ngồi lặng trong phòng làm việc, ngẫm nghĩ về tương lai ảm đạm.
Dan Wayne là một người đàn ông kiêu hãnh. Ông biết tất cả những lời đùa cợt về những người Texas to mồm, nói khoác một tấc đến trời, nhưng ông vẫn thật sự cảm thấy mình có điều gì đó đáng hãnh diện.
Ông sinh ra ở Waco, trong một khu vực nông nghiệp giàu có của châu thổ sông Brazos. Waco là một thị trấn hiện đại, nhưng vẫn phảng phất hương vị của quá khứ, thời mà nó hình thành, tồn tại và phát triển trên năm cây trụ: gia súc, bông, ngô, trường học và văn hoá. Wayne yêu mến Waco bằng tất cả trái tim và khối óc, khi ông gặp vị tu sĩ trên chuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ kia, thì gần như ông đã nói suốt năm tiếng đồng hồ về cái thị trấn quê hương mình.
Vị tu sĩ nói với ông là muốn rèn luyện tiếng Anh, nhưng thực ra, khi nghĩ lại, thì hoá ra là gần như chỉ có một mình ông nói cả câu chuyện.
- Waco có tất cả mọi thứ, - Ông ta đã tâm sự với vị tu sĩ Thời tiết của chúng tôi thì tuyệt vời. Chúng tôi không cho phép trời quá nóng hay quá lạnh. Chúng tôi có hai mươi ba trường học trong vùng và có Đại học Baylor. Chúng tôi có bốn tờ báo, mười đài phát thanh và năm đài truyền hình. Chúng tôi có Phòng truyền thống mà ông phải choáng cả người. Ý tôi nói, ở đó là lịch sử. Nếu ông thích câu cá, thưa Cha, thì sông Brazos sẽ là nơi mà ông không thể quên. Rồi chúng tôi còn có một khu săn bắn và một trung tâm nghệ thuật lớn. Tôi cam đoan với ông, Waco là một trong những thành phố có một không hai trên thế giới. Ông phải đến thăm chúng tôi mới được.
Và vị tu sĩ già nhỏ bé đã mỉm cười, gật gật đầu, còn Dan Wayne nghi hoặc, không hiểu ông ta nghe được bao nhiêu tiếng Anh.
Dan Wayne đã thừa kế của người cha một ngàn mẫu đất trang trại, và đã làm đàn gia súc sinh sôi từ hai ngàn lên đến mười ngàn. Lại còn một con ngựa đua đáng giá cả một gia tài nữa. Vậy mà bọn khốn kiếp đang toan cướp đi tất cả của ông. Thị trường gia súc sụt xuống hoặc việc ông chậm trả tiền thế nợ đâu có phải là lỗi của ông. Các nhà băng đều hùa vào để làm hại ông và cơ hội duy nhất để ông ta tự cứu mình là tìm ra được người mua lại trang trại, thanh toán cho các chủ nợ và giữ lại một chút tiền lãi…
Wayne đã nghe có một người Thuỵ Sĩ giàu có muốn mua một trang trại ở Texas, và ông ta đã bay đi Zurich để gặp người đó. Nhưng té ra đó chỉ là trò thả mồi bắt bóng. Cái trang trại trong đầu cái thằng cha công tử bột đó là một hay hai mẫu đất với một cái vườn rau nhỏ xinh xinh.
Đó là lý do vì sao mà vô tình ông lại có mặt trên chuyến xe bus khi cái chuyện kỳ lạ kia xảy ra. Ông đã có đọc về chuyện đĩa bay, nhưng ông chưa bao giờ tin những chuyện đó cả. Giờ đây, nhờ Chúa, ông dứt khoát đã tin. Ngay sau khi ông trở về, ông gọi điện một chủ bút một tờ báo địa phương.
- Johnny, tôi mới nhìn thấy một cái đĩa bay thật sự với mấy xác người kỳ quặc chết trong đó.
- Thế hả? Ông có chụp tấm ảnh nào không thế, Dan?
- Không. Tôi có chụp mấy tấm, nhưng hỏng cả.
- Không sao. Chúng tôi sẽ cho một tay nhiếp ảnh tới đó. Nó đã trên trang trại của ông phải không?
- Ồ không. Thực ra là nó ở Thuỵ Sĩ kia.
Một thoáng im lặng.
- Ồ ra vậy, nếu như ông tình cờ nhìn thấy nó trên trang trại của ông, Dan, thì gọi lại cho tôi nhé.
- Khoan. Một thằng cha cũng nhìn thấy, nó sẽ gửi cho tôi một tấm ảnh mà…
Nhưng Johnny đã gác máy.
Thế đó.
Gần như là Wayne mong có một cuộc xâm lăng của những người từ hành tinh khác. Có thể họ sẽ giết sạch những tên chủ nợ khốn kiếp của ông. Ông nghe thấy có tiếng xe đang chạy vào và nhỏm dậy bước đến bên cửa sổ nhìn ra. Có vẻ là một gã ở miền Đông.
Có thể lại là một chủ nợ khác. Những ngày nầy họ ở đâu ra mà lắm thế cơ chứ.
Dan Wayne mở cửa trước.
- Xin chào.
- Ông là Daniel Wayne…
- Bạn bè gọi tôi là Dan. Tôi có thể làm gì cho ông thế?
Dan Wayne không hề như Robert đã hình dung; một mẫu người Texas vạm vỡ. Ông ta thanh mảnh, dáng quý tộc và điều bộ hơi rụt rè. Điều duy nhất thể hiện gốc gác của ông ta là giọng nói.
- Tôi không biết liệu có thể xin ông vài phút được không?
- Tôi cũng chỉ còn ngần ấy thời gian, - Wayne nói. - Nhân tiện xin được hỏi, ông không phải là một chủ nợ ư?
- Một chủ nợ ấy à? Không?
- Tốt. Xin mời vào.
Hai người cùng ngồi ở phòng khách. Đó là một căn phòng lớn với đồ đạc rất tiện nghi theo kiểu miền Tây.
- Ông có một chỗ ở đẹp quá, - Robert nói.
- Dạ. Tôi được sinh ra trong ngôi nhà nầy. Tôi có thể mời ông uống gì nhỉ? Một chút gì mát, được không?
- Không, cảm ơn. Tôi không khát.
- Xin mời ngồi.
- Robert ngồi xuống chiếc đi văng bọc da mềm mại.
- Ông gặp tôi có việc gì thế?
- Tôi được biết là ông có đi một tuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước?
- Đúng thế. Cô vợ cũ thuê người theo dõi tôi à? Ông không làm việc cho cô ta đấy chứ?
- Không, thưa ông.
- Ồ, - ông ta chợt hiểu ra. - Ông quan tâm đến cáí đĩa bay kia chứ gì. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy gì khủng khiếp đến thế. Nó luôn thay đổi màu sắc. Và những sinh vật đã chết kia nữa. - Ông ta rùng mình. - Tôi vẫn nằm mê thấy nó.
- Ông Wayne, ông có thể nói với tôi bất kỳ điều gì về những người khách trên cùng chuyến xe đó được không?
- Xin lỗi. Tôi không thể giúp gì ông. Tôi đi có một mình.
- Tôi biết, nhưng ông có nói chuyện với những người khách khác chứ, phải không nào?
- Nói thật với ông, tôi rất nặng đầu nặng óc. Tôi đã chẳng chú ý mấy tới bất kỳ ai khác.
- Ông có nhớ bất kỳ chuyện gì về bất kỳ ai trong số họ không?
Day Wayne im lặng một lát.
- Ồ có một tu sĩ người Italia. Tôi có nói chuyện với ông ta một chút. Ông ta có vẻ là một người dễ mến. Tôi muốn nói để ông biết là cái đĩa bay kia thật sự làm cho ông ta choáng váng. Ông ấy cứ nói mãi về chuyện quỷ sứ.
- Ông có nói chuyện với ai khác nữa không?
Day Wayne nhún vai.
- Không hẳn… Chờ một phút. Tôi còn trò chuyện với ông chủ một nhà băng ở Canada. - Ông ta đưa lưỡi liếm môi. - Nói thật với ông, tôi đang có một chút khó khăn tài chính ở đây, với cái trang trại nầy. Có thể là tôi mất nó. Tôi ghét cái đám chủ nhà băng khốn kiếp kia. Bọn chúng toàn là những kẻ hút máu. Dù sao thì tôi nghĩ là cái thằng cha nầy có thể khác. Khi biết ông ta là chủ nhà băng, tôi đã nói chuyện với ông ta về việc thu xếp một kiểu tín dụng nào đó ở đây. Nhưng hắn cũng giống như tất cả bọn chúng thôi. Hắn không thể nào hờ hững hơn thế được.
- Ông nói hắn ta ở Canada à?
- Phải, Fort Smith, trên mãi vùng Các lãnh thổ Tây Bắc. Tôi e rằng đó là tất cả những gì tôi có thể nói với ông rồi đấy.
Robert cố giấu tâm trạng kích động của mình.
- Ông Wayne, xin cảm ơn ông, ông đã giúp ích rất nhiều. - Robert đứng dậy.
- Thế thôi à?
- Thế thôi.
- Ông có muốn ở lại dùng bữa tối không?
- Không, cảm ơn. Tôi phải lên đường thôi. Chúc may mắn trong chuyện trang trại nhé.
- Cảm ơn.
Fort Smith, Canada. Các lãnh thổ Tây Bắc.
° ° °
Robert đợi cho đến khi tiếng Hilliard xuất hiện trên máy.
- Có ông sĩ quan hả?
- Tôi đã tìm được một nhân chứng khác. Dan Wayne. Ông ta là chủ trại Ponderosa, một trang trại bên ngoài Waco, Texas.
- Rất tốt. Tôi sẽ để cho cơ quan của chúng tôi ở Dallas nói chuyện với ông ta.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc CIA:
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne - Waco.
Hết.
Tại Langley, Virginia, phó giám đốc Cục Tình báo Trung ương đang trầm ngâm xem bức điện số 6. Công việc thật trôi, chảy. Sĩ quan Bellamy đang làm việc tuyệt hảo. Janus đã đúng. Người đàn ông đó luôn luôn đúng. Và ông ta có quyền lực để những mong muốn của ta được thực hiện. Bao nhiêu quyền lực… Ông ta nhìn bức điện một lần nữa. Chuyện nầy sẽ không khó khăn gì. Rồi nhấn cái nút.
° ° °
Hai người đàn ông đến trang trại bằng chiếc xe chở hàng màu xanh sẫm.
Họ đỗ xe ngoài sân, ra khỏi xe và thận trọng nhìn quanh. Ý nghĩ đầu tiên của Dan Wayne là họ đến để tịch biên cái trại. Ông ta mở cửa trước cho họ.
- Ông là Dan Wayne?
- Vâng. Tôi đây.
Ông ta chỉ mới nói được có thế.
Người đàn ông thứ hai đã bước vòng lại phía sau và cầm một cái bình da dùng để đựng rượu đánh mạnh vào đầu ông ta.
Một trong hai người đàn ông với vóc cao to hơn xốc ông chủ trại đã bất tỉnh lên vai và mang ông ta ra ngoài chuồng bò. Hai người đàn ông phớt lờ những con vật và đi thẳng vào phía trong cùng. Trong cái khoang đó là một con ngựa giống màu đen tuyệt đẹp.
Người đàn ông cao to nói:
- Đây chỗ nầy.
- Anh ta hạ Wayne xuống.
Người đàn ông thứ hai bước lại gần cửa khoang nhốt con ngựa, và đánh nó bằng cái gậy có điện. Nó lồng lên, hất tung hai chân sau. Một cú đánh mạnh hơn nữa vào mũi nó. Nó lồng lên điên cuồng, trong cái không gian chật chội, va đập vào bốn góc, răng nhe ra và lòng trắng mắt ngầu lên.
Nào, - người đàn ông cao to nhấc Dan lên và quăng ông ta vào trong cái khoang của con ngựa đực.
Họ đứng nhìn cái quang cảnh đẫm máu trong vài giây rồi hài lòng bỏ đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
Phó giám đốc CIA gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne - Waco - Đã bị thủ tiêu.
Hết.

Chương 28
Ngày thứ chín.
Fort Smith, Canada.
Fort Smith nằm ở vùng Các lãnh thổ Tây Bắc là một thị trấn thịnh vượng với hai nghìn dân phần đông là chủ trại và những người chăn nuôi gia súc cùng với một số ít thương nhân. Khí hậu ở đây khắc nghiệt, với những mùa đông đài và băng giá, còn bản thân thị trấn nầy là một bằng chứng sống động đối với thuyết Darwin về sự tồn tại của những gì thích nghi nhất.
William Mann là một trong những sinh vật thích nghi đó, một kẻ sống sót. Ông ta sinh ra ở Michigan, nhưng hồi ngoài ba mươi tuổi, đã đến Fort Smith trên một chiếc tàu đánh cá và cho rằng cộng đồng nơi đây cần có một nhà băng tốt hơn. Ông ta đã chộp được cơ hội. Ở đó chỉ còn một nhà băng khác nữa và William Mann mất không đầy hai năm để đẩy đối thủ của mình ra ngoài cuộc đấu. Mann điều hành nhà băng rất đúng cách. Vốn say mê toán học, ông ta coi sóc để sao cho những con số luôn luôn là có lợi cho mình. Ông rất hay nói tới câu chuyện đùa về một người đàn ông đến một ông chủ nhà băng mượn tiền cho một ca mổ khẩn cấp cho đứa con nhỏ của mình. Khi người vay tiền nói không có gì thế chấp, ông chủ nhà băng bèn đuổi ông ta ra.
- Tôi sẽ đi, - người đàn ông nói, - nhưng tôi muốn bảo cho ông biết rằng cả đời tôi chưa bao giờ thấy ai nhẫn tâm như ông cả.
- Đợi một chút, - Ông chủ nhà băng đáp lại. - Tôi sẽ cho ông một khả năng nầy. Một trong hai con mắt tôi làm bằng thuỷ tinh. Nếu ông có thể nói đó là bên mắt nào, thì tôi sẽ cho ông vay.
- Con mắt trái của ông. - Ngay lập tức, ông vay tiền đáp.
- Không ai biết chuyện nầy cả. Làm sao mà ông có thể đoán được? - Ông chủ nhà băng kinh ngạc.
- Thật dễ thôi. Trong một thoáng, tôi tưởng là đã thấy một ánh nhìn thông cảm ở con mắt bên trái, bởi vậy tôi biết nó là con mắt thuỷ tinh.
Câu chuyện đó, đối với William Mann, là bài học tốt cho một nhà kinh doanh. Người ta không thể buôn bán trên cơ sở sự thông cảm. Phải nhìn xuống mức thấp nhất. Trong khi các nhà băng khác ở Canada và Mỹ đổ liểng xiểng thì nhà băng của William Mann mạnh hơn bao giờ hết. Nguyên tắc của ông ta rất đơn giản: Không cho vay tín dụng để khởi đầu công việc làm ăn. Không đầu tư với những trái phiếu vô tích sự. Không cho những người láng giềng vay, dù họ đang có đứa con cần được giải phẫu gấp.
Mann hết sức kinh hãi trước hệ thống nhà băng Thuỵ Sĩ Những ông thần giữ của ở Zurich là chủ của các chủ nhà băng. Bởi vậy, một hôm, William Mann đã quyết định phải đi Thuỵ Sĩ, trao đổi với một vài ông chủ nhà băng ở đó để xem ông ta còn thiếu sót gì không, còn cách nào để có thể vắt thêm từng xu Canada được không. Ông ta đã được tiếp đón tử tế, nhưng rốt cuộc thì cũng không học được gì thêm. Các phương thức kinh doanh ngân hàng của ông ta là đáng ngưỡng mộ, và các ông chủ nhà bằng Thuỵ Sĩ đã không hề ngần ngại nói ra điều đó.
Hôm phải lên đường trở về, Mann quyết định tự cho mình một cuộc du ngoạn trên dãy Alps. Chuyến đi thật chán ngắt. Phong cảnh thì đẹp, nhưng cũng chẳng hơn gì cảnh quan Fort Smith. Một trong số những du khách, một người Texas, đã cả gan toan thuyết phục ông ta cấp tín dụng cho một cái trang trại đang vỡ nợ: ông ta đã cười vào mũi gã. Điều duy nhất trong chuyến đi được coi là có chút thích thú, chính là vụ tai nạn của cái gọi là đĩa bay kia. Trong một giây, Mann đã không tin vào sự thật đó. Ông ta tin đó là do chính phủ Thuỵ Sĩ bày đặt ra để gây ấn tượng cho khách du lịch. Ông ta đã từng đến Thế giới Walt Disney, và đã nhìn thấy những điều tương tự, trông thì như thật nhưng lại là giả. Đó là con mắt thuỷ tinh của Thuỵ Sĩ, ông ta mỉa mai thầm nghĩ.
William Mann sung sướng được trở về nhà.
Từng phút của ông chủ nhà băng nầy đều được ấn định tỉ mỉ cho mỗi ngày làm việc, và khi viên thư ký bước vào nói có một người lạ muốn được gặp, thì ý nghĩ đầu tiên của Mann là mời ông ta đi.
- Ông ta muốn gì?
- Ông ta nói muốn phỏng vấn ông. Ông ta đang viết một bài báo về các chủ nhà băng.
Đó lại là vấn đề hoàn toàn khác. Sự xuất hiện đúng cách là tốt cho công cuộc kinh doanh. William Mann chỉnh lại chiếc áo khoác, vuốt tóc ngay ngắn, và nói:
- Đưa ông ta vào.
Khách là một người Mỹ, ăn mặc sang trọng, điều đó chứng tỏ ông ta làm việc cho một tạp chí hoặc một tờ báo lớn.
- Ông ỉà Mann phải không ạ?
- Phải.
- Tôi là Robert Bellamy.
- Thư ký của tôi nói rằng ông muốn viết một bài báo về tôi.
- Ồ không phải là hoàn toàn về ông, - Robert nói. - Nhưng tất nhiên là ông sẽ nổi bật trong đó. Tờ báo của tôi.
- Tờ nào vậy?
- Nhật báo Wall Strees.
- À thế thì tuyệt vời.
- Tờ Nhật báo cảm thấy rằng hầu hết các chủ nhà băng đều quá xa rời với những gì đang xảy ra trên thế giới. Họ ít khi di chuyển, họ không chịu đi tới những nước khác. Trái lại, thưa ông Mann, ông có tiếng là rất hay đi.
- Tôi nghĩ là như vậy, - Mann nói một cách khiêm nhường. - Thực tế là tôi vừa mới trở về từ chuyến đi Thuỵ Sĩ tuần trước.
- Thật thế ư? Ông có hài lòng với nó không?
- Có. Tôi đã gặp gỡ một vài chủ nhà băng ở đó. Chúng tôi đã thảo luận về các vấn đề kinh tế thế giới.
Robert đã rút ra một cuốn sổ và đang ghi chép.
- Ông có thời gian giải trí không?
- Không hẳn. Ờ, tôi có một chuyến đi du ngoạn bằng xe bus. Trước đây, tôi chưa bao giờ được thấy dãy Alps.
Robert ghi chép thêm một chút.
- Một chuyến du lịch. Đó chính là cái mà chúng tôi đang tìm kiếm, - Robert nói đầy vẻ khuyến khích. - Tôi hình dung là ông đã gặp nhiều người đáng mến trên chuyến xe bus đó.
- Đáng mến ư? - Ông ta nghĩ đến cái người đàn ông Texas toan vay tiền. - Không hẳn là như thế.
- Ô?
Mann nhìn ông khách. Tay phóng viên nầy rõ ràng là chờ ông ta nói thêm. "Tất nhiên là ông sẽ nổi bật trong đó"
- Có một cô gái người Nga.
- Thế ư? Hãy nói với tốt về có ta. - Robert ghi vào sổ.
- Ồ, chúng tôi bắt chuyện với nhau, và tôi đã giải thích cho cô ta hiểu nước Nga lạc hậu như thế nào và đang hướng tới những khó khăn khủng khiếp ra sao, trừ phi họ thay đổi.
- Hẳn là cô ta bị gây ân tướng rất mạnh, - Robert nói.
- Ồ có chứ. Có vẻ là một cô gái thông minh. Nghĩa là với người Nga. Ông biết đấy, tất cả họ đều bị cô lập quá. Cô ta có nói tên không?
- Không, à…, khoan nào. Olga gì đó.
- Cô ta có ngẫu nhiên nói là từ đâu tới không?
- Có. Cô ta làm việc tại một thư viện lớn ở Kiev.
Đó là chuyến đi nước ngoài đầu tiên của cô ấy, tôi đoán, là nhờ có cải tổ. Nếu như ông muốn biết ý kiến của tôi… - Ông ta ngừng lời để cho Robert ghi lại - Về mặt chính trị, Gorbachev đi quá nhanh, còn về mặt kinh tế thì ông ta lại đi quá chậm.
- Thật là kỳ lạ. - Robert lẩm bẩm.
Anh bỏ ra nửa giờ nữa với tay chủ nhà băng, nghe những bình luận chủ quan của ông ta về đủ mọi thứ, từ Thị trường chung đến kiểm soát vũ trang. Anh đã không thể có thêm thông tin gì về những hành khách khác.
° ° °
Khi Robert trở về khách sạn, anh gọi ngay cho tướng Hilliard.
- Xin chờ một chút, ông chỉ huy Bellamy.
- Anh nghe thấy một loạt tiếng lách cách, và rồi tiếng tướng Hilliard vang lên.
- Có! Ông sĩ quan?
- Thưa tướng quân, tôi vừa tìm ra một hành khách nữa.
- Tên?
- William Mann. Ông ta có một nhà băng ở Fort Smith, Canada.
- Cảm ơn. Tôi sẽ báo cho giới chức Canada nói chuyện với ông ta ngay lập tức.
- Nhân thể có việc là ông ta trao cho tôi một manh mối khác. Tối nay tôi sẽ phải bay đi Nga. Tôi cần có một thị thực của Intourist Nga.
- Ông đang gọi từ đâu đấy?
- Fort Smith.
- Dừng lại khách sạn Visigoth ở Stockholm. Sẽ có một phong bì cho ông ở chỗ tiếp tân.
- Cảm ơn ngài.
° ° °
Vào lúc 11 giờ đêm hôm đó, chuông cửa nhà William Mann réo vang. Ông ta không hề đợi ai, và càng không ưa những khách viếng thăm bất ngờ. Người quản gia đã nghỉ, và vợ ông ta đang yên giấc trong phòng riêng trên gác. Khó chịu, Mann ra mở cửa. Hai người đàn ông mặc đồ đen đứng sững trước ông.
- Ông là William Mann phải không?
- Phải.
Một trong hai người kia rút ra tấm căn cước.
- Chúng tôi ở Ngân hàng Canada. Chúng tôi có thể vào được không?
- Có chuyện gì vậy? - Mann chau mầy.
- Chúng tôi muốn thảo luận ở trong nhà, nếu như ông không phản đối.
- Được - Ông ta dẫn họ vào phòng khách.
- Mới đây ông đến Thuỵ Sĩ phải không?
- Câu hỏi làm cho ông ta bị bất ngờ.
- Cái gì? Phải, nhưng có chuyện quái quỷ gì thế?
- Trong thời gian ông đi vắng, chúng tôi đã kiểm tra sổ sách của ông, ông Mann. Ông có biết là tại ngân hàng của ông thiếu hụt một triệu đô la không?
William Mann nhìn hai người đàn ông, thất kinh.
- Các ông nói cái gì vậy? Tuần nào tôi cũng đích thân kiểm tra sổ sách mà. Chưa bao giờ thiếu một đồng xu nào cả.
- Một triệu đô la, thưa ông Mann. Chúng tôi nghĩ là ông phải chịu trách nhiệm biển thủ số tiền đó.
Mặt đỏ bừng lên, Mann thấy mình lắp bắp.
- Sao, sao các người dám… Cút khỏi đây ngay trước khi tao gọi cảnh sát.
- Điều đó chẳng có lợi gì cho ông cả. Cái chúng tôi muốn ở ông là phải biết hối hận.
Lúc nầy, ông ta nhìn họ chằm chằm, tức tối.
- Hối hận? Hối hận chuyện gì hả? Các người điên rồi.
- Không đâu, thưa ông.
Một trong hai người đàn ông rút ra một khẩu súng.
- Ông Mann, ngồi xuống.
- Ôi, lạy Chúa! Mình bị cướp rồi.
- Nầy, - Mann nói, - hãy lấy bất kỳ thứ gì các người muốn. Không cần phải bạo hành và…
- Xin mời ngồi xuống.
Người đàn ông thứ hai bước đến bên tủ rượu. Nó bị khoá. Hắn đập vỡ tấm kính và lấy ra một cái cốc uống nước lớn, rót đầy rượu và mang đến chỗ Mann đang ngồi.
- Uống đi. Nó sẽ làm cho ông thấy thoải mái.
- Tôi, tôi không bao giờ uống sau bữa tối. Bác sĩ của tôi…
- Uống đi, nếu không cái ly sẽ đầy óc của ông đấy. - Gã kia dí súng vào thái dương Mann.
Bây giờ thì Mann hiểu là mình đang ở trong tay hai thằng điên. Ông ta run run cầm cốc rượu lên và uống một ngụm.
- Uống cạn đi.
Ông ta uống một ngụm lớn hơn.
- Các các ông muốn gì? - Ông ta cất cao giọng, hy vọng rằng bà vợ có thể nghe thấy và đi xuống nhà, nhưng đó chỉ là một mong muốn tuyệt vọng. Ông biết rõ bà luôn ngủ say như chết. Rõ ràng là hai người nầy đến để cướp bóc. Tại sao họ không vơ vét rồi chuồn đi nhỉ?
- Muốn lấy gì thì lấy, - Ông ta nói. - Tôi sẽ không ngăn trở gì.
- Uống nốt đi.
- Không cần phải thế nầy. Tôi…
- Uống nốt đi.
Gã đàn ông đánh mạnh vào phía trên tai, Mann kêu lên đau đớn.
Ông ta uống nốt chỗ Wishky còn lại và cảm thấy choáng váng.
- Két của tôi ở trong phòng ngủ trên gác, - Ông ta nói, giọng bắt đầu líu lại. - Tôi sẽ mở nó cho các anh. - Có thể điều đó sẽ làm cho vợ mình thức giấc và bà ta sẽ gọi điện cho cảnh sát.
- Không vội gì, - gã cầm súng nói. - Ông có nhiều thời gian để uống.
Người thứ hai đi lại chỗ tủ rượu và rót đầy một ly khác.
- Đây!
- Không, thật mà, - William Mann phản đối. - Tôi không muốn.
Ly rượu được ấn vào tay.
- Uống đi.
- Tôi thật sự không…
Một quả đấm giáng vào chỗ bị đáng súng đập. Mann suýt ngất đi vì đau đớn.
- Uống đi.
Thôi được nếu như đó là điều chúng mầy muốn thì sao lại không nhỉ? Cơn ác mộng nầy càng qua nhanh càng tốt. Ông ta uống một ngụm lớn và đưa tay bịt miệng.
- Nếu như tôi uống nữa, tôi sẽ nôn mất.
- Nếu như mà nôn, tôi sẽ giết ông. - Gã kia nói ngay.
Mann ngước nhìn hắn, rồi gã cùng đi với hắn. Dường như cứ mỗi tên biến thành hai vậy.
- Các người muốn gì cơ chứ? - Ông ta lẩm nhẩm.
- Ông Mann, chúng tôi đã nói rồi. Chúng tôi muốn ông hối hận.
- Được Tôi hối hận. - William Mann ngật ngưỡng gật đầu.
Hai gã mỉm cười.
- Ông thấy đấy, đó là tất cả những gì chúng tôi yêu cầu Bây giờ… - Hắn ấn một mẩu giấy vào tay Mann. - Tất cả những gì ông phải làm là viết. Tôi xin lỗi. Hãy tha thứ cho tôi…
- Có thế thôi hả? - William ngước mắt lên vẻ u muội.
- Thế thôi. Và rồi chúng tôi sẽ đi khỏi đây.
Ông ta đột nhiên cảm thấy phấn chấn. Vậy là chuyện chỉ có thế Họ là những kẻ cuồng tín. Ngay sau khi họ đi, mình sẽ gọi cảnh sát và cho bắt hết. Mình sẽ kiện để những kẻ khốn kiếp nầy bị treo cổ.
- Viết đi ông Mann.
Ông ta thấy khó tập trung đầu óc.
- Anh nói anh muốn tôi viết gì hả?
- Hãy viết, "Tôi xin lỗi. Hãy tha thứ cho tôi".
- Phải. - Ông ta cầm bút một cách khó khăn, cố tập trung và bắt đầu viết. "Tôi xin lỗi. Hãy tha thứ cho tôi!"
Gã nhặt mảnh giấy từ tay Mann, những ngón tay cầm sát mép giấy.
- Ông Mann, thế là tốt. Thấy dễ dàng chưa?
Căn phòng bắt đầu quay cuồng.
- Phải. Cảm ơn. Tôi đã hối hận. Bây giờ thì các anh đi chứ?
- Tôi thấy là ông thuận tay trái?
- Sao cơ?
- Ông thuận tay trái.
- Đúng.
- Gần đây, vùng nầy có nhiều tội phạm, ông Mann. Chúng tôi sẽ để cho ông giữ khẩu súng nầy.
Mann cảm thấy một khẩu súng được đặt vào bàn tay trái mình - Ông có biết sử dụng một khẩu súng như thế nào không?
- Không.
- Rất đơn giản. Ông dùng như thế nầy nhé… - Gã ta đàn ông nâng khẩu súng lên thái dương William và miết ngón tay của ông chủ nhà băng lên cò súng.
Một tiếng nổ bị bóp nghẹt. Mẩu giấy dính máu được thả xuống sàn nhà.
- Thế là xong, - một trong hai gã nói. - Chúc ngủ ngon, ông Mann.
Điện khẩn.
Tối mật.
CGHQ gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
7. William Mann - Fort Smih - Đã bị thủ tiêu
Hết.
° ° °
Ngày thứ mười.
Fort Smith, Canada.
Sáng hôm sau, các nhân viên thanh tra ngân hàng báo cáo về việc mất một triệu đô la tại nhà băng của Mann. Cảnh sát đã xếp cái chết của Mann vào dạng tự sát.
Khoản tiền bị mất kia chẳng bao giờ được tìm thấy.

Chương 29
Ngày thứ mười một.
Brussels, 3 giờ 00.
Tướng Shipley, chỉ huy trưởng tại Bộ tư lệnh khối NATO, được người sĩ quan phụ tá của ông đánh thức dậy.
- Thưa tướng quân, tôi xin lỗi vì phải đánh thủc ngài, nhưng dường như chúng ta đang có tình hình báo động.
Tướng Shipley dụi mắt cho hết ngái ngủ. Đêm trước, ông đã phải thức khuya để tiếp đón các Thượng nghị sĩ từ Mỹ tới thăm.
- Có chuyện gì vậy Billy?
- Tôi vừa nhận được tin báo từ đài ra- đa , thưa ngài. Hoặc là tất cả các thiết bị của chúng ta trở nên điên loạn, hoặc là chúng ta đang có những người khách lạ.
Tướng Shipley bật ra khỏi giường.
- Nói với họ là năm phút nữa tôi sẽ tới.
° ° °
Căn phòng ra- đa mờ tối đầy kín các sĩ quan và binh sĩ tập hợp xung quanh các màn ảnh ra- đa sáng bừng đặt ở chính giữa. Họ quay lại và đứng nghiêm khi ông tướng bước vào.
- Nghỉ. - Ông ta bước tới viên sĩ quan trực ban, đại uý Muller. - Lewis, có chuyện gì thế?
Đại uý Muller đưa tay vuốt đầu.
- Tôi thua. Ngài có bao giờ thấy một máy bay nào có thể bay với tốc độ 22 nghìn dặm một giờ, đột ngột dừng lại, và rồi bay theo hướng ngược lại không?
- Anh đang nói cái gì vậy hả? - Tướng Shipley trợn mắt lên.
Căn cứ vào màn ảnh ra- đa của chúng ta thì đó chính là những gì diễn ra trong suốt nửa giờ đồng hồ qua. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ đó có thể là một thứ thiết bị điện tử gì đó đang được thử nghiệm, nhưng chúng tôi đã kiểm tra lại với người Nga, người Anh, người Pháp, và họ cũng ghi nhận được cùng một thứ như vậy trên các màn hình ra- đa của họ.
- Vậy thì không thể là chuyện trục trặc trong thiết bị được, - tướng Shipley nặng nề nói.
- Vâng, thưa ngài. Trừ phi giả thiết rằng tất cả các ra- đa trên thế giới đều bất chợt trở nên điên rồ hết.
Bao nhiêu cái đó đã xuất hiện trên màn ra- đa ?
- Hơn một chục. Chúng chuyển động nhanh đến mức chỉ bám theo cũng đã khó khăn lắm rồi. Chúng tôi ghi nhận được chúng, và chúng lại biến mất ngay. Chúng tôi đã loại trừ các hiện tượng khí quyển, khí tượng, sao băng, bóng thám không, và mọi phương tiện bay mà chúng ta đã biết. Tôi đang tính cho vài máy bay cất cánh, nhưng những vật thể nầy, không biết là thứ gì nữa, bay cao khủng khiếp đến mức chúng ta không bao giờ có thể đến gần chúng được.
Tướng Shipley bước lại một trong những màn ra- đa .
Hiện bây giờ trên màn hình của các anh có cái gì không?
- Thưa không. Chúng đi rồi. - Anh ta ngập ngừng một giây. - Nhưng, thưa tướng quân, tôi có cảm giác hãi hùng là chúng sẽ còn trở lại.

Chương 30
Ottawa, 5 giờ 00.
Khi Janus đọc dứt bản báo cáo của tướng Shipley, vị người Italia đứng dậy và nói với vẻ kích động:
- Chúng đang sẵn sàng xâm lăng chúng ta.
- Chúng xâm lăng chúng ta rồi. - Người Pháp nói.
- Chúng ta đã quá trễ. Đó là một thảm hoạ. - Người Nga nói. - Không có cách nào.
Janus cắt ngang.
- Thưa quý vị, đó là một thảm hoạ mà chúng ta có thể ngăn chặn.
- Như thế nào? Ngài biết đòi hỏi của chúng à? - Người Anh nói.
- Vấn đề không phải là những đòi hỏi của chúng. - Người Brasil nói. - Việc chúng ta làm gì với cây cối của chúng ta đâu phải việc của họ. Cái gọi là hiệu ứng nhà kính chỉ là một thứ khoa học rác rưởi, hoàn toàn chưa được kiểm nghiệm.
- Còn về chúng tôi thì sao? - Người Đức nói. - Nếu chúng buộc chúng tôi phải làm sạch bầu không khí trên các thành phố của nước Đức, chúng tôi sẽ phải đóng cửa các nhà máy và sẽ không còn lại ngành công nghiệp nào cả.
- Còn chúng tôi sẽ phải ngừng sản xuất ô tô, - người Nhật Bản nói. - Và rồi nền văn minh của thế giới nầy sẽ thế nào?
- Chúng ta đều cùng trong một tình thế như nhau. - Người Nga nói. - Nếu như phải ngừng tất cả những gì làm ô nhiễm môi trường, như họ đòi hỏi, thì điều đó sẽ huỷ hoại các nền kinh tế thế giới. Chúng ta phải dành thêm thời gian cho đến khi sẵn sàng với cuộc Chiến tranh giữa các hành tinh.
Đồng ý như vậy. Vấn đề trước mắt của chúng ta là giữ cho dân chúng bình tĩnh và tránh sự hỗn loạn lan tràn. - Janus nói một cách quả quyết.
- Công việc của sĩ quan chỉ huy Bellamy thế nào rồi? - Người Canada nói.
- Đang có những kết quả tuyệt hảo. Ông ta sẽ hoàn tất nhiệm vụ trong một hai ngày tới

     Còn tiếp….

Âm Mưu Ngày Tận Thế(Truyện Trinh Thám)<Chương 22-30> Rating: 4.5 Diposkan Oleh: Unknown

0 nhận xét:

Đăng nhận xét