Kenh giai tri, tin tuc giai tri,

Âm Mưu Ngày Tận Thế(Truyện Trinh Thám)<Chương 31-40>

books_thumb13_thumb_thumb
Chương 31
Kiev, Ucraina.
Giống như hầu hết những phụ nữ Nga khác, Olga Romanchanko đã trở nên chán ngán với cải tổ.
Thoạt đầu tất cả những thay đổi được hứa hẹn sẽ diễn ra trên Tổ quốc Nga có vẻ thật hấp dẫn. Những ngọn gió tự do thổi trện các đường phố, và niềm hy vọng tràn ngập bầu không khí. Có những lời hứa hẹn về thịt và rau tươi trong các cửa hàng, những quần áo đẹp những đôi giầy da thật và cả trăm thứ tuyệt diệu khác. Nhưng giờ đây, sáu năm sau khi nó vận hành, sự vỡ mộng cay đắng đã xen vào. Hàng hoá khan hiếm hơn bao giờ hết. Thực sự là mọi thử đều thiếu và giá cả tăng vọt. Những ổ gà lớn ngổn ngang trên các đường phố chính. Nhan nhản những cuộc biểu tình và số tội phạm tăng lên. Những hạn chế cũng nghiêm ngặt hơn bao giờ hết. Cải tổ và công khai đã bắt đầu có vẻ rỗng tuếch như những lời hứa hẹn của các nhà chính trị đã khơi xướng chúng.
Olga đã làm việc tại một thư viện trên quảng trường Lenkosomol ở trung tâm Kiev bẩy năm trời. Cô ba mươi hai tuổi và chưa bao giờ bước chân ra khỏi Liên Xô. Trông Olga khá hấp dẫn, hơi mập một chút, nhưng ở Nga thì điều đó không bị coi là một nhược điềm.
Cô đã từng kết hôn với hai người đàn ông, và họ đều đã bỏ rơi cô: Dmitri, người đã đi Leningrad, và Ivan, người đã bỏ đi Mátxcơva. Olga đã toan đi theo để cùng sống với Ivan, nhưng không có hộ khẩu Mátxcơva thì điều đó là không thể được.
Khi sinh nhật lần thứ ba mươi ba của cô đến gần, Olga quyết tâm đi thăm thú thế giới bên ngoài một lần cho biết. Cô đến gặp giám đốc thư viện, người tình cờ lại là bà dì của cô.
- Cháu muốn được nghỉ phép, - Olga nói.
- Khi nào thì cô muốn đi?
- Tuần sau.
- Chúc vui vẻ.
Mọi chuyện thật đơn giản. Trước thời cải tổ, đi nghỉ phép có nghĩa là đi Biển Đen, Samarkan hoặc Tbilisi, hoặc là bất kỳ chỗ nào khác nhưng không vượt khỏi lãnh thổ Liên Xô. Còn giờ đây, nếu tháo vát một chút thì cả thế giới sẽ mở ra trước bạn. Olga lấy một cuốn bản đồ từ trên giá sách và chúi đầu vào đó.
Bên ngoài là cả một thế giới lớn. Châu Phi, châu Á, Bắc và Nam Mỹ… Cô e ngại đi xa đến như thế, bèn lật sang tấm bản đồ châu Âu. Thuỵ Sĩ, cô nghĩ. Đó là nơi mình sẽ tới.
Cô sẽ chẳng bao giờ thú nhận với ai trên đời nầy, nhưng Thuỵ Sĩ đã hấp dẫn cô, chủ yếu vì cô đã hơn một lần được biết mùi chocolat của nó, và cô không bao giờ có thể quên được cảm giác đó. Cô thích ăn kẹo. Ở Nga - khi mà người ta có thể kiếm được - thì cũng là thứ kẹo không đường và mùi vị thì chẳng ra gì.
Olga đã phải đổi mạng sống chỉ vì thèm được ăn kẹo chocolat.
Hành trình trên chuyến bay Aeroflot tới Zurich là một sự khởi đầu thú vị. Chưa bao giờ đi máy bay, Olga rất hồi hộp khi phi cơ hạ cánh xuơng sân bay quốc tế ở Zurich. Trong không khí có cái mùi gì đó khang khác. Có thể là mùi vị của tự do thật sự, Olga nghĩ. Tiền bạc của cô rất eo hẹp, và cô đã đặt phòng trước ở Leonhare, một khách sạn nhỏ, rẻ tiền, ở số 136 Limmatquai.
Olga làm thủ tục ở bàn tiếp tân.
- Đây là lần đầu tiên tôi tới Thuỵ Sĩ, - Cô trình bày với nhân viên khách sạn bằng một thứ tiếng Anh ngắc ngứ. - Anh có thể gợi ý cho tôi nên làm gì không.
- Tất nhiên. Ở đây thì có nhiều thử lắm, - anh ta nói với cô. - Có thể là cô nên bắt đầu với một vòng quanh thành phố. Tôi sẽ thu xếp việc đó.
- Cảm ơn.
Olga thấy Zurich thật hấp dẫn. Cô sững sờ trước cảnh quan và những âm thanh của thành phố nầy.
Người đi đường ăn mặc đẹp và lái những chiếc xe đắt tiển. Với Olga thì dường như tất cả mọi người ở Zurich đều là những nhà triệu phú… Và còn những cửa hiệu dọc con đường Bahnhofstrasse, đường phố buôn bán chính của Zurich, và cô ngạc nhiên trước mức độ phong phú đến không thể tin được trong các ô kính: nào váy, nào áo khoác, váy lót, giầy dép, đồ nữ trang, bát đĩa, đồ gỗ, ô tô, sách báo, ti vi, radio, đồ chơi và đàn piano… Hàng hoá bày bán dường như không kể xiết. Và rồi Olga chợt đi ngang qua tiệm Sprungli, nổi tiếng về mứt và kẹo chocolat. Trời, chocolat!
Bốn ô kính lớn đầy ngập, đủ các loại khác nhau. Có cả chuối bao chocolat và những hạt chocolat trong chứa một chút rượu hảo hạng. Chỉ nhìn thôi cũng đã thấy sướng. Olga những muốn mua tất cả, nhưng khi biết giá rồi thì đành chỉ mua một hộp thập cẩm nhỏ và một hộp lớn những chocolat thanh.
Trong tuần lễ tiếp theo đó, Olga đã thăm khu vườn Zurichchhorn, bảo tàng Rietherg và nhà thờ Grossmunster - được xây cất trong thế kỷ mười một, và hơn một chục điểm du lịch tuyệt vời khác. Sau cùng, đã cũng sắp hết thời gian.
Người nhân viên ở khách sạn Leonhare nói với cô:
- Hàng xe bus du lịch Sunshine có một tuyến rất hấp dẫn trên vùng núi Alps. Tôi nghĩ là cô có thể thưởng ngoạn điều đó trước khi rời khỏi đây.
- Cảm ơn, Olga nói. - Tôi sẽ thử xem.
Khi rời khỏi khách sạn, nơi dừng chân đầu tiên của cô là tiệm Sprungli, và nơi tiếp theo là văn phòng hãng Sunshine đề làm thủ tục cho một chuyến đi.
Quang cảnh đẹp đến nghẹt thở, và giữa chừng của chuyến đi, họ đã chứng kiến vụ nổ của cái mà thoạt đầu cô nghĩ là đĩa bay, nhưng ông chủ nhà băng người Canada ngồi cạnh cô đã giải thích rằng đó chỉ là chuyện bày đặt của chính phủ Thuỵ Sĩ dành cho du khách, và rằng không hề tồn tại cái mà cô vừa nghĩ đến.
Olga đã không hoàn toàn bị thuyết phục. Khi trở về nhà ở Kiev, cô đã mang chuyện nầy ra nói với bà dì của mình.
- Chắc là có đĩa bay, - bà dì nói. - Chúng bay trên bầu trời nước Nga suốt ấy mà. Cháu nên bán câu chuyện của mình cho một tờ báo.
Olga đã tính làm như vậy nhưng lại sợ bị người ta cười cho. Đảng Cộng sản không muốn các đảng viên của mình trở thành đối tượng của sự nhạo báng.
Dù sao chăng nữa, Olga kết luận, bên cạnh chuyện Dmitri và Ivan, kỳ nghỉ của cô là kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời. Thật là khó khăn khi bắt tay vào trở lại với công việc.
° ° °
Chiếc xe bus của Intourist chạy mất một giờ trên con đường cao tốc mới được xây dựng từ sân bay về tới trung tâm Kiev. Đó là lần đầu tiên Robert tới đây, và anh có ấn tượng mạnh mẽ với những công trình xây dựng đâu đâu cũng thấy trên dọc đường và những toà nhà ở lớn đang mọc lên khắp nơi. Chiếc xe bus dừng lại trước khách sạn Dniepr và đổ xuống hơn hai chục hành khách. Robert nhìn đồng hồ đeo tay mình, 8 giờ. Thư viện đóng cửa mất rồi. Anh làm thủ tục thuê phòng ở cái khách sạn lớn ấy, nơi mà một phòng đã được đặt trước cho anh, uống một cốc ở quầy rượu và đi vào trong cái phòng ăn trắng toát mộc mạc để ăn một bữa tối với trứng cá muối, dưa chuột, cà chua, sau đó là món khoai tây hầm với chút thịt có thêm nhiều bột, tất cả được kèm với Vodka và nước khoáng.
Thị thực nhập cảnh đã được để sẵn cho anh tại khách sạn ở Stockholm như tướng Hilliard đã hứa.
Đó là kêt quả nhanh chóng của sự hợp tác quốc tế, Robert nghĩ. Nhưng chẳng có sự hợp tác nào cho mình cả. Từ nghiệp vụ gọi là "Trần trụi".
Sau bữa ăn, Robert hỏi han đôi chút tại bàn tiếp tân và đi vơ vẩn ra quảng trường Lenkosomol. Kiev thật sự gây ngạc nhiên đối với anh. Là một trong những thành phố cổ kính nhất nước Nga, với dáng vẻ châu Âu nó nằm trên bờ sông Dniepr, với những công viên xanh tươi và những đường phố rộng lớn có cây trồng dọc hai bên. Ở đâu cũng thấy các nhà thờ, và chúng là những thí dụ ngoạn mục cho kiến trúc tôn giáo, như các nhà thờ Thánh Vladimir, Thánh Andrew, và Thánh Sofia - nhà thờ sau cùng nầy được hoàn tất vào năm 1037, và tu viện Pechersk, công trình kiến trúc cao nhất thành phố. Susan sẽ rất yêu thích những phong cảnh nầy, Robert nghĩ. Cô chưa bao giờ đến nước Nga. Anh băn khoăn không biết cô đã từ Brasil trở về hay chưa. Cảm thấy bị thôi thúc, anh gọi điện thoại cho cô khi trở lại khách sạn, và anh ngạc nhiên thấy gần như không hề phải chờ đợi gì.
- Xin chào? - Cái giọng cổ khêu gợi ấy.
- Chào. Brasil thế nào?
- Robert. Em cố gọi cho anh mấy lần. Không có ai trả lời.
- Anh không có nhà.
Ôi! Cô đã được huấn luyện quá kỹ để không hỏi là anh đang ở đâu.
- Anh có khoẻ không đấy?
Đối với một thằng quan hoạn thì khoẻ.
- Tất nhiên. Khoẻ. Cái túi tiền Monte thế nào?
- Anh ấy khoẻ. Robert, ngày mai chúng em sẽ đi Gibraltar.
Tất nhiên là trên cái du thuyền của thằng cha Cái túi tiền khốn kiếp kia. Tên nó là gì ấy nhỉ? À, phải, Thanh Bình.
- Bằng du thuyền?
- Vâng. Anh có thể gọi cho em ở đó. Anh có nhớ số máy không?
Anh nhớ. - WS387. WS có nghĩa gì nhỉ? Susan tuyệt diệu chăng?… Sao lại phải xa nhau chăng…Kẻ đi cướp vợ người?
- Anh Robert?
- Có anh nhớ. WS (Wishky và Đường) 337.
- Anh sẽ gọi chứ? Để em biết là anh khoẻ mạnh mà.
- Rồi. Anh nhớ em, cô bé ạ.
Một im lặng đau đớn, hồi lâu. Anh chờ đợi. Anh đợi cô nói gì nhỉ?
Đến cứu em khỏi cái thằng cha quyến rũ nầy, gã trông giống một Paul Newman và đã bắt em phải đi trên chiếc du thuyền lộng lẫy của hắn và sống trong những cung điện nhỏ nhắn nghèo khổ ờ Monte Carlo, Paris, London và chỉ có Chứa mới, biết được là còn ở những đâu nưà. Giống như một thằng ngu, anh thấy mình có phần mong cô sẽ nói như thế.
- Em cũng nhớ anh, Robert. Hãy tự chăm sóc mình.
Và đường dây bị cắt. Anh còn lại ở nước Nga, đơn độc.
° ° °
Ngày thứ mười hai.
Kiev, Ucraina.
Sáng sớm hôm sau, khi thư viện mở cửa được mười phút, Robert đã bước vào toà nhà lớn, ảm đạm, và tiến lại bàn thường trực.
- Xin chào. - Robert nói.
Người phụ nữ ngồi sau bàn ngẩng lên.
- Xin chào. Ông cần gì?
- Vâng. Tôi đang tìm một người phụ nữ mà tôi tin là đang làm việc ở đây, cô Olga.
- Olga? Có đấy. - Chị ta chỉ sang một phòng khác. - Cô ấy ở trong phòng kia.
- Cám ơn.
Thật là dễ dàng. Robert bước đi ngang qua một nhóm sinh viên đang chăm chú làm việc bên những chiếc bàn dài. Chuẩn bị cho một thứ tương lai gì thế không biết? Robert băn khoăn. Anh tới một phòng đọc nhỏ hơn và bước vào bên trong. Một người phụ nữ đang bận bịu xếp lại những cuốn sách.
- Xin thứ lỗi, - Robert nói.
- Gì thế ạ? - Chị ta quay lại.
- Chị là Olga?
- Tôi là Olga. Ông cần gì ở tôi thế?
Robert nở một nụ cười gây thiện cảm.
- Tôi đang viết một bài báo về công cuộc cải tổ và ảnh hưởng của nó đối với những người Nga ở tầng lớp trung bình. Nó có tác động đến đời sống của chị không?
Người phụ nữ nhún vai.
- Trước Gorbachev, chúng tôi không dám mở miệng. Bây giờ chúng tôi có thể mở miệng nhưng lại không có gì để cho vào cả.
Robert thử một mẹo khác.
- Chắc chắn là có những thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn. Thí dụ, bây giờ các bạn có thể đi du lịch.
- Hẳn là ông nói đùa. Với một ông chồng và sáu đứa con thì ai mà có tiền đi du lịch?
- Thì chị vẫn có thể có tiền đề đi Thuỵ Sĩ và… - Robert cố thêm.
- Thuỵ Sĩ ư? Trong đời tôi chưa bao giờ mơ được đến đó.
- Chị chưa bao giờ tới Thuỵ Sĩ hả? - Robert từ tốn nói.
- Tôi đã nói rồi đấy thôi. - Chị ta hất hàm về phía một phụ nữ tóc sẫm đang chọn sách trên bàn. - Cô ấy mới là người may mắn được tới Thuỵ Sĩ đấy.
- Tên cô ấy là gì thế? - Robert liếc mắt nhìn.
- Olga. Cùng tên với tôi.
- Cám ơn. - Anh thở dài.
Một phút sau, Robert đã nói chuyện với cô Olga thứ hai kia.
- Xin lỗi, - Robert nói. - Tôi đang viết một bài báo về cải tổ và ảnh hưởng của nó đến đời sống của người dân Nga.
- Dạ? - Cô gái nhìn anh một cách cảnh giác.
- Tên cô là gì?
- Olga. Olga Romanchanko.
- Hãy nói cho tôi biết, cô Olga, rằng cải tổ có tác động gì đến cô không?
Sáu năm về trước, hẳn Olga Romanchanko sẽ sợ phải nói chuyện với một người nước ngoài, nhưng giờ đây thì điều đó đã được phép.
- Không hẳn có gì, - Cô nói một cách thận trọng. - Mọi thứ phần lớn vẫn như cũ thôi.
- Không có gì thay đổi trong cuộc sống của cô ư? - Người khách lạ vẫn bướng bỉnh.
Cô ta lắc đầu.
- Không. - Và rồi cô nói thêm vì lòng yêu nước. - Tất nhiên là bây giờ chúng tôi có thể đi du lịch ra nước ngoài.
- Và cô đã đi rồi? - Anh tỏ ra quan tâm.
- Ô, vâng. - Cô hãnh diện nói. - Tôi vừa mới từ Thuỵ Sĩ trở về. Một đất nước rất đẹp.
- Tôi đồng ý, - anh nói. - Cô có cơ hội làm quen với ai trong chuyến đi đó không?
- Tôi đã gặp rất nhiếu người. Tôi ngồi xe bus và chúng tôi đi lên vùng núi cao. Dãy Alps. - Đột nhiên, Olga nhận ra là cô không nên nhắc tới chuyện nầy bởi vì người khách lạ có thể hỏi cô về con tàu vũ trụ; và cô không muốn nói ra. Chuyện đó chỉ có chuốc cho cô những rắc rối mà thôi.
- Thế à? Robert hỏi. - Hãy nói cho tôi nghe về những người trên chiếc xe bus đó.
Nhẹ cả người. Olga đáp:
- Rất thân thiện. Họ ăn mặc… - Cô ra hiệu bằng tay, - rất giàu. Tôi gặp cả một người từ thủ đô của ông tới, từ Washington D.C.
- Thế hả?
- Vâng. Rẩt tử tế. Ông ấy đã cho tôi tấm danh thiếp.
- Cô vẫn giữ nó chứ? - Tim Robert đã ngưng lại một nhịp.
- Không Tôi đã ném nó đi rồi. - Cô nhìn quanh. - Tốt hơn là không nên giữ những thứ đó.
Khốn kiếp.
Và rồi cô nói thêm:
- Tôi nhớ tên ông ta. Parker. Parker, giống như tên cái bút của các ông ấy. Kenvin Parker. Rất quan trọng trong các vấn đề chính trị. Ông ấy kề chuyện các Thượng nghị sĩ phải kiếm phiếu thế nào.
- Đó là điều ông ấy nói với cô à? - Robert giật mình.
- Vâng. Ông ấy đã đưa họ đi du lịch và tặng quà, và rồi họ bỏ phiếu ủng hộ cho những gì mà khách hàng của ông ấy cần. Đó là con đường dân chủ ở nước Mỹ.
Một người vận động hành lang. Robert để Olga nói thêm mười lăm phút sau đó, nhưng anh không gó thêm được thông tin có ích gì về những hành khách khác.
° ° °
Robert gọi điện cho tướng Hilliard từ phòng khách sạn của anh.
- Tôi đã tìm thấy nhân chứng người Nga. Tên cô ta là Olga Romanchako, làm việc tại thư viện trung tâm ở Kiev.
- Tôi sẽ để một quan chức Nga nói chuyện với cô ta.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc GRU.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
8. Olga Romanchanko Kiev.
Hết
Chiều hôm đó, Robert bay trên chiếc Tu- 154 của Aeroflo tới Paris. Anh tới nơi sau 3 giờ 25 phút và chuyển sang một chuyến bay của hãng hàng không Pháp đi Washington D.C.
° ° °
Lúc 2 giờ sáng, Olga Romanchanko nghe thấy tiếng xe ô tô phanh gấp trước toà nhà nơi cô sống, trên phố Veryk. Các bức tường mỏng manh đến nỗi cô có thể nghe được tất cả những tiếng nói ngoài phố. Cô dậy khỏi giường và đến nhìn qua cửa sổ. Hai người đàn ông mặc đồ dân sự đang ra khỏi chiếc xe Chaika màu đen, kiểu xe mà các quan chức chính phủ sử dụng.
Họ đi vào cổng chung cư của cô. Bóng dáng họ làm cho cô thấy rùng mình. Nhưng năm qua, một số người hàng xóm của cô đã mất tích, không ai trông thấy họ bao giờ nữa. Một số bị đầy đi Siberia. Olga không biết lần nầy mật vụ đang săn lùng ai, và ngay khi vẫn còn đang nghĩ như vậy, có tiếng gõ cửa, làm cô giật bắn minh. Họ muốn gì ở mình nhỉ? Cô lo lắng.
Hẳn là có sự nhầm lẫn.
Khi cô mở cửa, hai người đàn ông đang đứng đó.
Đồng chí Olga Romanchanko phải không?
- Dạ.
- Cơ quan Tình báo Quân sự GRU khét tiếng.
Họ sấn sổ bước vào phòng.
- Các các anh muốn gì?
Chúng tôi sẽ là người hỏi. Tôi là Thượng sĩ Yuri Gromkov. Đây là Thượng sĩ Vladimir Zemsky.
- Có… có chuyện gì sai trái chăng? Tôi đã làm gì nào? - Cô đột ngột cảm thấy sợ hãi.
- Ồ vậy là cô biết mình đã làm gì đó sai trái. - Zemsky chộp lấy.
- Không, chắc chắn là không. - Olga nói, bối rối. - Tôi không biết vì sao các anh lại tới đây.
- Ngồi xuống. - Gromkov quát lên. Olga làm theo, run rẩy.
- Cô vừa từ Thuỵ Sĩ trở về, phải không nào?
- Dạ, dạ, - Cô lắp bắp, - nhưng đó - đó là… Tôi được phép của…
- Olga Romanchanko, hoạt động gián điệp bất hợp pháp.
- Hoạt động gián điệp? Cô khiếp sợ. - Tôi không hiểu các anh đang nói gì.
Người đàn ông cao to nhìn chằm chằm vào thân thể cô và Olga bỗng nhận ra cô chỉ có một cái váy ngủ mỏng tang trên người.
- Đi. Cô phải đi cùng chúng tôi.
- Nhưng, có một sự nhầm lẫn kinh khủng. Tôi là một thủ thư. Xin hỏi bất kỳ ai ở đây.
- Nào. - Anh ta kéo cô đứng dậy.
- Các anh mang tôi đi đâu?
- Về trụ sở. Họ muốn thẩm vấn cô.
Họ cho phép cô mặc áo khoác ra ngoài váy ngủ.
Cô bị đẩy xuống cầu thang và ấn vào trong chiếc Chaika.
Olga nghĩ tới tất cả những người đã phải ngồi vào trong chiếc xe giống như thế nầy, đề không bao giờ trở về, cô chết lặng đi vì sợ hãi.
Người đàn ông cao to, Gromkov, lái xe. Olga được đẩy vào ghế sau, ngồi cùng với Zemsky. Anh ta dường như không làm cho cô sợ hãi bằng người kia, nhưng cô đã bị tê liệt với việc biết họ là ai và điều gì sắp xảy ra với mình.
- Xin hãy tin tôi. - Olga nói một cách khẩn khoản. Tôi không bao giờ phản bội.
- Câm mồm. - Gromkov quát lên.
Nầy, chẳng lý do gì phải quá cứng rắn với cô ấy cả. Thực ra thì tôi tin cô ấy. - Vladimir Zemsky nói.
Olga cảm thấy tim mình rộn lên vì hy vọng.
- Thời thế đã thay đổi. - Zemsky nói tiếp. - Đồng chí Gorbachev không muốn chúng ta quấy nhiễu những người vô tội. Những ngày đó đã qua rồi.
- Ai nói là cô ta vô tội? - Gromkov càu nhàu. - Có thể là có có thể là không. Ở trụ sở họ sẽ tìm ra ngay thôi mà.
Olga ngồi nghe hai người đàn ông nói về cô như thể cô không hề có ở đó.
- Nào, Yuri, cậu biết là ở trụ sở thì cô ấy sẽ thú tội cho dù có tội hay không. Tớ không thích thế. - Zemsky nói.
- Chuyện đó thì quá tệ. Chúng ta chẳng thể làm gì được đâu Được chứ.
- Cái gì?
Người đàn ông ngồi bên cạnh Olga im lặng một thoáng.
- Nghe nầy, - anh ta nói, - tại sao chúng ta không thả quách cô ấy ra nhỉ? Chúng ta có thể nói lại là cô ấy không có nhà. Chúng ta sẽ trì hoãn một hoặc bai ngày, và họ sẽ quên chuyện cô ấy đi vì họ có quá nhiều người để tra hỏi rồi.
Olga toan nói gì đó, nhưng cổ họng cô khô khốc.
Cô mong mỏi đến tuyệt vọng là người đàn ông ngồi cạnh cô thuyết phục được người kia vì sao chúng ta phải liều mạng để cứu cô ta hả?
- Chúng ta được gì nào? Cô ấy sẽ làm gì cho chúng ta nào? - Gromkov làu bàu.
Zemsky quay lại và nhìn Olga vẻ dò hỏi. Olga cố cất lời:
- Tôi không có tiền bạc gì.
- Ai cần tiền của cô? Chúng tôi có rất nhiều tiền.
- Cô ta có thứ khác. - Gromkov nói.
Olga chưa kịp trả lời thì Zemsky nói:
- Khoan đã, Yuri Ivanovich, cậu không thể đòi cô ấy làm điều đó.
- Tuỳ cô ta thôi. Cô ta có thể ngọt ngào với chúng ta hoặc là tới trụ sở và sẽ bị tra tấn trong một hoặc hai tuần lễ. Có thể là họ sẽ tống cô ta vào trong một cái chuồng cọp xinh xắn.
Olga đã nghe về những cái chuồng cọp. Những hầm giam chiều một mét, chiều hai mét lạnh lẽo với một cái giường gỗ và không chăn chiếu gì. "Ngọt ngào với chúng ta". Thế nghĩa là thế nào nhỉ?
- Tuỳ cô ta.
- Cô muốn thế nào? - Zemsky quay sang Olga.
- Tôi, tôi không hiểu.
- Anh bạn tôi nói rằng nếu như cô ngọt ngào với chúng tôi, chúng tôi có thể bỏ qua vụ nầy. Sau một thời gian ngắn: có thể họ sẽ quên chuyện của cô.
- Tôi tôi sẽ phải làm gì cơ?
Gromkov mỉm cười với cô qua tấm gương chiếu hậu.
- Hãy dành cho chúng tôi ít phút ở cô. - Anh ta nhớ tới một câu đã đọc ở đâu đó. - Hãy nằm đó và nghĩ tới hoàng đế. - Rồi cười khoái trá.
Olga đột nhiên hiểu ra họ muốn gì. Cô lắc đầu.
- Không. Tôi không thể làm điều đó.
Được. - Gromkov bắt đầu tăng tốc độ. - Ở trụ sở họ sẽ có một cuộc vui với cô.
- Khoan.
Cô đang trong cơn hoảng sợ và không biết phải làm gì. Cô đã nghe những cầu chuyện khủng khiếp về điều gì xảy đến đối với những người bị bắt giữ và trở thành tội nhân. Cô đã nghĩ rằng tất cả những chuyện đó đã chấm dứt, nhưng bây giờ thì cô hiểu là không phải. Cải cách vẫn còn đang là một hy vọng, một tưởng tượng. Họ sẽ không cho phép cô có một luật sư hoặc nói chuyện với bất kỳ ai. Trong quá khứ, bạn bè của cô đã bị nhân viên GRU hãm hiếp, sát hại. Cô đã mắc bẫy. Nếu cô chịu vào tù, họ có thể giam giữ cô nhiều tuẩn lễ, đánh đập, hãm hiếp cô, hoặc có thể còn tệ hại hơn. Với hai người đàn ông nầy, ít ra thì chuyện đó cũng chỉ qua đi trong ít phút và rồi họ sẽ thả cô ra. Olga đi đến một quyết định.
- Cũng được, cô đau khổ nói. - Các anh có muốn quay trở lại căn hộ của tôi không?
- Tôi biết có một chỗ tốt hơn. - Gromkov nói. Anh ta vòng xe ngược lại.
- Tôi xin lỗi về chuyện nầy, nhưng anh ta là chỉ huy. Tôi không thể ngăn anh ta được. Zemsky thì thầm.
Olga không đáp lại.
Họ chạy ngảng qua Nhà hát Opera Shevchenko màu đỏ rực và hướng tới một công viên có cây cối bao quanh. Vào giờ nầy, công viên hoàn toàn vắng ngắt.
Gromkov lái xe chạy dưới những hàng cây và rồi tắt điện, tắt máy.
- Ra ngoài đi. - Anh ta nói.
Cả ba người bước ra khỏi xe.
- Cô thật may mắn. Chúng tôi thả cô ra thật dễ dàng. Tôi hy vọng là cô sẽ đánh giá cao điều đó. - Gromkov nhìn Olga.
Olga gật đầu, không dám nói gì vì quá sợ.
Gromkov dẫn họ tới một chỗ quang.
- Cởi ra.
Trời lạnh, Olga nói. - Chẳng lẽ chúng ta không thể…?
- Làm theo lời tao trước khi tao thay đổi ý kiến. - Gromkov tát mạnh vào mặt cô.
Olga ngập ngừng một giây, và khi hắn ta lại giơ tay chực đánh, cô bắt đầu cởi khuy áo khoác.
- Cởi hẳn ra.
Cô thả cái áo rơi xuống đất.
- Giờ đến cái váy ngủ.
Olga chậm chạp kéo cái váy qua đầu và lột hẳn nó ra, run lên trong trời đêm giá lạnh, đứng trần truồng dưới ánh trăng.
- Tấm thân ngon lành. - Gromkov nói. Hắn ta bóp hai đầu vú cô.
- Đừng…
- Mầy nói nửa lời, chúng tao sẽ mang mầy đến trụ sở. - Anh ta đẩy cô nằm xuống đất.
Mình sẽ không nghĩ tới chuyện nầy. Mình sẽ cố nghĩ là mình đang ở Thuỵ Sĩ, trên chiếc xe bus du đi du lịch và ngắm những phong cảnh đẹp đẽ.
Gromkov tụt quần ra và giang rộng hai chân Olga.
Mình có thể nhìn thấy đỉnh Alps tuyết phủ. Có một cái xe trượt tuyết chạy ngang, trên đó là hai đứa trẻ, một trai, một gái.
Cô thấy hắn luồn tay dưới hông cô và ấn cái giống đực vào trong cô, làm cô đau đớn.
Có những chiếc xe đẹp đẽ đang chạy trên xa lộ. Nhiều xe hơn bao giờ cô từng nhìn thấy trong đời. Ở Thuỵ Sĩ mỗi người đều có một chiếc xe.
Hắn đang dồn dập mạnh hơn trên người cô, cấu véo cô kêu lên những tiếng kêu như thú hoang.
Mình sẽ có một ngôi nhà nhỏ ở trên núi. Người Thuỵ Sĩ gọi là gì nhỉ? Chalét. Và mình sẽ có kẹo chocolat hàng ngày. Có hàng hộp.
Lúc nầy, Gromkov đã buông cô ra, thở hồng hộc.
Hắn đứng lên và quay sang Zemsky.
Đến lượt cậu.
Mình sẽ lấy chồng và có con, và cả nhà sẽ đi trượt tuyết vào mùa đông.
Zemsky dã mở sẵn khoá quần và lập tức nằm đè lên cô.
Đó sẽ là một cuộc sống tuyệt vời. Mình sẽ không bao giờ trở về Nga. Không bao giờ. Không bao giờ.
Hắn đã ở trong cô, còn làm cô đau đớn hơn cả gã kia, ghì chặt hai mông cô và đè thân thề cô xuống nền đất lạnh, cho đến lúc sự đau đớn tưởng chừng như không thể chịu đựng được nữa.
Mình và gia đình sẽ sống ở một trang trại, một nơi luôn vắng lặng và thanh bình, và có một mảnh vườn với những bông hoa xinh đẹp.
Zemsky đã xong và nhìn lên người bạn đồng nghiệp.
- Tôi cảm thấy cô ta sướng. - Hắn cười. Rồi cúi xuống tóm lấy đầu Olga và bẻ gẫy cổ cô.
Ngày hôm sau, trên tờ báo địa phương có mẩu tin về việc một cô thủ thư bị hiếp và bị giết chết trong công viên. Kèm theo đó là một lời cảnh cáo nghiêm khắc của giới chức trách rằng những cỏ gái trẻ đi một mình vào công viên buổi tối là rất nguy hiểm.
Điện khẩn.
Tối mật.
Phó giám đốc GRU gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
8. Olga Romanchanko - Kiev - Đã bị thủ tiêu
Hết

Chương 32
Williard Stone và Monte Banks là những kẻ thù tất yếu. Cả hai đều là những con thú ăn thịt tàn bạo, và cánh rừng mà chúng đang lảng vảng rình rập là những bức tường đá cao ngất trên Wall Strees, với những chủ nhân đầy quyền lực, những ông chủ tài chính cỡ bự và những vụ chuyển nhượng cổ phiếu khổng lồ.
Hai người đã đụng độ nhau lần đầu tiên trong vụ dành giật một công ty có lợi nhuận lớn. Williard Stone đã thắng thầu lần đầu và hy vọng là không có trục trặc gì. Ông ta có thế lực quá mạnh và tiếng tăm của ông ta khủng khiếp đến độ ít ai dám đương đầu nên đã rất đỗi ngạc nhiên khi được biết có một nhà doanh nghiệp trẻ tên là Monte Banks đang tranh thầu với ông Stone buộc phải nâng thầu và số tiền cứ cao lên mãi. Sau cùng Williard Stone cũng dành được quyền kiểm soát công ty đó, nhưng với lãi suất thấp hơn nhiều so với dự tính.
Sáu tháng sau, trong một cuộc bỏ thầu để mua lại một hãng điện tử lớn, Stone lại chạm chán Monte Banks.
Giá thầu cứ leo lên mãi và lần nầy thì Banks thắng.
Khi Williard Stone biết Monte Banks dự định cạnh tranh với mình để dành quyền kiềm soát một hãng máy tính, ông ta quyết định đã đến lúc phải đối mặt với đối thủ. Hai người đàn ông gặp nhau trên mảnh đất trung lập ở đảo Paradise thuộc bang Bahamas.
Williard Stone đã cho điều tra kỹ lưỡng về lai lịch của địch thủ và biết rằng Monte Banks xuất thân từ một gia đình kinh doanh dầu mỏ giầu có và đã khôn khéo thương lượng để đưa di sản thừa kế của anh ta vảo một tổ hợp quốc tế.
Hai người ngồi vào bàn ăn trưa. Williard Stone, già và khôn ngoan, còn Monte Banks thì trẻ và hăng hái.
- Anh đang trở thành một cái ung nhọt nhức nhối đấy! - Williard mở đầu câu chuyện.
Từ miệng ông nói ra thì đó là một lời khen ngợi lớn Monte Banks mỉm cười.
- Anh muốn gì?
- Như ông thôi. Tôi muốn làm chủ thế giới nầy.
- Ồ, thế giới nầy đủ lớn. - Williard Stone trầm ngâm nói.
- Nghĩa là thế nào?
- Có đủ chỗ cho cả hai chúng ta.
Đó là ngày mà họ trở thành bạn của nhau. Mỗi người đều thành công trong việc kinh doanh của mình một cách riêng rẽ, nhưng mỗi khi có những đề án mới - gỗ, dầu, bất động sản - thì họ lại phối hợp với nhau, thay vì đối chọi. Đã vài lần Cơ quan chống kinh doanh bất hợp pháp của Bộ Tư pháp đã cố ngăn chặn những vụ làm ăn của họ, nhưng các mối quen biết của Williard Stone đã luôn tỏ ra có ích. Monte Banks là chủ của những công ty hoá chất phải chịu trách nhiệm trước sự ô nhiễm môi trường tràn lan trên các sông hồ, nhưng khi anh ta bị truy tố, thì bản cáo trạng lại bị bỏ lửng một cách bí ẩn.
Hai người đàn ông đó có một mối quan hệ cộng sinh hoàn hảo.
Chiến Dịch Ngày Tận Thế là lẽ đương nhiên đối với họ, và cả hai đều tham gia nhiều vào nó. Họ đang sắp kiếm được một hợp đồng mua mười triệu mẫu rừng xanh tốt trong vùng nhiệt đới Amazon. Đó sẽ là một trong những hợp đồng béo bở nhất mà họ kiếm được từ trước tới nay.
Họ không thể chấp nhận bất kỳ vật cản nào trên đường đi của mình.

Chương 32
Williard Stone và Monte Banks là những kẻ thù tất yếu. Cả hai đều là những con thú ăn thịt tàn bạo, và cánh rừng mà chúng đang lảng vảng rình rập là những bức tường đá cao ngất trên Wall Strees, với những chủ nhân đầy quyền lực, những ông chủ tài chính cỡ bự và những vụ chuyển nhượng cổ phiếu khổng lồ.
Hai người đã đụng độ nhau lần đầu tiên trong vụ dành giật một công ty có lợi nhuận lớn. Williard Stone đã thắng thầu lần đầu và hy vọng là không có trục trặc gì. Ông ta có thế lực quá mạnh và tiếng tăm của ông ta khủng khiếp đến độ ít ai dám đương đầu nên đã rất đỗi ngạc nhiên khi được biết có một nhà doanh nghiệp trẻ tên là Monte Banks đang tranh thầu với ông Stone buộc phải nâng thầu và số tiền cứ cao lên mãi. Sau cùng Williard Stone cũng dành được quyền kiểm soát công ty đó, nhưng với lãi suất thấp hơn nhiều so với dự tính.
Sáu tháng sau, trong một cuộc bỏ thầu để mua lại một hãng điện tử lớn, Stone lại chạm chán Monte Banks.
Giá thầu cứ leo lên mãi và lần nầy thì Banks thắng.
Khi Williard Stone biết Monte Banks dự định cạnh tranh với mình để dành quyền kiềm soát một hãng máy tính, ông ta quyết định đã đến lúc phải đối mặt với đối thủ. Hai người đàn ông gặp nhau trên mảnh đất trung lập ở đảo Paradise thuộc bang Bahamas.
Williard Stone đã cho điều tra kỹ lưỡng về lai lịch của địch thủ và biết rằng Monte Banks xuất thân từ một gia đình kinh doanh dầu mỏ giầu có và đã khôn khéo thương lượng để đưa di sản thừa kế của anh ta vảo một tổ hợp quốc tế.
Hai người ngồi vào bàn ăn trưa. Williard Stone, già và khôn ngoan, còn Monte Banks thì trẻ và hăng hái.
- Anh đang trở thành một cái ung nhọt nhức nhối đấy! - Williard mở đầu câu chuyện.
Từ miệng ông nói ra thì đó là một lời khen ngợi lớn Monte Banks mỉm cười.
- Anh muốn gì?
- Như ông thôi. Tôi muốn làm chủ thế giới nầy.
- Ồ, thế giới nầy đủ lớn. - Williard Stone trầm ngâm nói.
- Nghĩa là thế nào?
- Có đủ chỗ cho cả hai chúng ta.
Đó là ngày mà họ trở thành bạn của nhau. Mỗi người đều thành công trong việc kinh doanh của mình một cách riêng rẽ, nhưng mỗi khi có những đề án mới - gỗ, dầu, bất động sản - thì họ lại phối hợp với nhau, thay vì đối chọi. Đã vài lần Cơ quan chống kinh doanh bất hợp pháp của Bộ Tư pháp đã cố ngăn chặn những vụ làm ăn của họ, nhưng các mối quen biết của Williard Stone đã luôn tỏ ra có ích. Monte Banks là chủ của những công ty hoá chất phải chịu trách nhiệm trước sự ô nhiễm môi trường tràn lan trên các sông hồ, nhưng khi anh ta bị truy tố, thì bản cáo trạng lại bị bỏ lửng một cách bí ẩn.
Hai người đàn ông đó có một mối quan hệ cộng sinh hoàn hảo.
Chiến Dịch Ngày Tận Thế là lẽ đương nhiên đối với họ, và cả hai đều tham gia nhiều vào nó. Họ đang sắp kiếm được một hợp đồng mua mười triệu mẫu rừng xanh tốt trong vùng nhiệt đới Amazon. Đó sẽ là một trong những hợp đồng béo bở nhất mà họ kiếm được từ trước tới nay.
Họ không thể chấp nhận bất kỳ vật cản nào trên đường đi của mình.

Chương 33
Ngày thứ mười ba.
Washington, D. C.
Thượng nghị viện Mỹ trong một kỳ họp toàn thể…
Vị thượng nghị sĩ trẻ từ bang Utah đang phát biểu và những gì đang xảy đến với hệ sinh thái của chúng ta là một điều ô nhục quốc gia. Đã đến lúc bộ máy vĩ đại nầy phải nhận ra rằng việc giữ gìn di sản quý báu mà các bậc tiền bối đã để lại chính là nghĩa vụ thiêng liêng của mình. Không chỉ là nghĩa vụ thiêng liêng mà còn là đặc quyền của chúng ta trong việc bảo vệ đất đai, không khí, và các vùng biển khơi bị phá huỷ trước những lợi ích đặc quyền ích kỷ. Và chúng ta có làm điều nầy không? Chúng ta có làm việc một cách tốt nhất với tất cả lương tâm của mình không? Hay chúng ta cho phép uy lực của đồng tiền chi phối mình.
Kevin Paker, ngồi trong phòng dành cho khách thăm, đã đưa mắt nhìn đồng hồ tới lần thứ ba trong vòng năm phút. Ông ta sốt ruột, không hiểu bài diễn văn sẽ còn kéo dài bao lâu nữa. Ông ta ngồi chờ chỉ bởi lẽ sắp đến giờ dùng bữa trưa với vị thượng nghị sĩ mà ông cần nhờ giúp đỡ. Kevin Pakker thích thú với việc đi ngang qua những hành lang quyền lực, chén chú chén anh với các ông nghị, tiêu xài phóng tay để đổi lấy những ân huệ chính trị.
Ông ta lớn lên trong nghèo đói ở Eugene, tiểu bang Oregon. Cha là người nghiện rượu, có một kho chữa gỗ nhỏ và đã biến cái nhẽ ra là một sự kinh doanh ăn phát đạt thành một thảm hoạ. Cậu con trai phải làm việc từ tuổi mười bốn, và bởi vì mẹ cậu đã bỏ đi theo một người đàn ông khác từ mấy năm trước, nên cậu đã không hề có đời sống gia đình. Paker dễ dàng có thể trở thành một kẻ lang bạt và kết thúc giống như ông bố, thế nhưng cứu cánh của cậu ta lại là cái vẻ đẹp trai và thêm nữa, rất có cá tính. Paker có mái tóc vàng lượn sóng và dáng dấp rất quý tộc mà hắn là thửa hưởng của ông cụ tổ lâu đời nào đó.
Một người giầu có trong thị trấn tiếc cho cái vẻ ngoài đó đã dành cho cậu ta việc làm và nhiều sự khích lệ. Người giầu có nhất thị trấn, Jch Goodspell, đặc biệt nhiệt tình giúp đỡ Paker và đã dành cho cậu ta một việc làm ngoài giờ tại một trong những công ty của mình, và là một người độc thần, ông ta thường mời Paker đến cùng ăn tối tại nhà.
- Cậu có thể thành đạt trong xã hội nầy đấy, - Goodspell nói, - nhưng cậu không thể làm nên nếu không có bạn bè.
- Tôi biết thế, thưa ngài. Và tất nhiên đầu tiên là tôi biết ơn thiện chí của ngài.
- Tôi có thể làm cho cậu nhiều hơn nữa, - Goodspdll nói. Họ đang ngồi trên chiếc đi- văng trong phòng khách, sau bữa ăn tối. Ông ta quàng tay ôm lấy cậu. - Còn nhiều nữa. - Ông ta bóp vai cậu. - Cậu có một thân hình đẹp, cậu biết thế không?
- Cám ơn ngài.
- Cậu có bao giờ cảm thấy cô đơn không?
- Thưa ngài, có. Lúc nào tôi cũng cô đơn.
- Ồ, cậu không phải cô đơn nữa. - Ông ta ve vuốt cánh tay cậu. Tôi cũng thấy cô đơn, cậu biết đấy. Người ta cần có ai đó để được ôm ấp, vuốt ve.
- Vâng, thưa ngài.
- Cậu đã có cô bạn gái nào chưa?
- Có tôi có đi cùng Sue Ellen một dạo.
- Cậu đã ngủ với con bé chưa?
- Không, thưa ngài. - Cậu đỏ bừng mặt.
- Kevin, cậu bao nhiêu tuổi rồi hả?
- Thưa ngài, mười sáu ạ.
- Đó là lứa tuổi tuyệt vời. Đã đến lúc cậu phải khởi đầu một sự nghiệp. - Ông ta quan sát Paker một thoáng. - Tôi cam đoan là cậu sẽ rất khá trong lĩnh vực chính trị.
- Chính trị ư? Thưa ngài, tôi không biết gì về nó cả.
- Vậy nên cậu sẽ phải đi học. Và tôi sẽ giúp cậu.
- Cám ơn ngài.
- Có rất nhiều cách để tỏ lòng biết ơn với người khác, - Goodspell nói. Ông ta xoa xoa dọc đùi cậu bé. - Nhiều cách. - Ông ta nhìn vào mắt Paker. - Cậu có hiểu ý tôi không.
- Có Jeb ạ.
Đó là lúc bắt đầu.
Khi Kevin tốt nghiệp trường trung học Churchill, Goodspell gửi cậu đến Đại học Oregon. Cậu nghiên cứu môn khoa học chính trị, và Goodspell thu xếp để người được ông ta bảo hộ được gặp mặt những nhân vật cần thiết. Họ đều có ấn tượng tốt với người thanh mên đầy vẻ hấp dẫn. Với những mối quan hệ của mình, Paker thấy mình có thể gắn kết lại những nhân vật quan trọng với nhau. Việc trở thành một chuyên gia vận động hành lang ở Washington là một bước tự nhiên, và Paker rất thạo việc.
Goodspell đã chết trước đó hai năm, nhưng lúc ấy thì Paker cũng đã có được một tài năng với một sở thích đối với công việc mà người đỡ đầu đã truyền dạy anh. Anh ta thích kiếm những cậu trai trẻ và đưa tới những khách sạn khuất nẻo, nơi mà anh ta không bị nhận mặt.
Vị thượng nghị sĩ tiểu bang Utah rốt cuộc cũng đang kết thúc bài phát biểu:
- … và bây giờ tôi nói với các ngài rằng, sẽ phải thông qua dự luật nầy nếu muốn cứu những gì còn lại trong hệ sinh thái của chúng ta. Vào lúc nầy tôi muốn đề nghị một cuộc bỏ phiếu công khai.
Ơn Chúa, buổi họp vô tận nầy đã sắp kết thúc.
Kevin Paker nghĩ đến một buổi tối đang chờ đón ông ta, và bắt đầu thấy hứng tình. Đêm hôm trước, ông ta đã gặp một cậu trai trẻ ở tiệm Danny P. Street Station, một tiệm dành cho những kẻ đồng tính luyén ái nổi tiếng. Thật không may là cậu trai kia đã có bạn. Nhưng buổi tối đó họ đã để ý đến nhau, và trước khi ra đi, Paker đã viết mấy chữ và luồn vào tay cậu ta. Một dòng chữ đơn giản "Đêm mai nhé". Cậu ta đã mỉm cười và gật đầu.
Kevin Paker vội vã mặc quần áo để đi. Ông ta muốn có mặt trước khi cậu trai trẻ kia đến. Cậu ta thật quá hấp dẫn, và Paker không muốn để ai đó nẫng mất. Chuông cửa réo vang. Mẹ kiếp. Paker ra mở cửa.
Một người lạ đang đứng đó.
- Kevin Paker?
- Phải.
- Tên tôi là Bellamy. Tôi muốn nói chuyện với ông một phút.
- Ông phải hẹn trước với thư ký của tôi. Tôi không bàn công việc sau giờ làm việc. - Paker nóng nảy nói.
- Đây không hẳn là công việc, ông Paker. Nó liên quan tới chuyến đi Thuỵ Sĩ của ông cách đây một hai tuần.
- Chuyến đi Thuỵ Sĩ của tôi à? Chuyện gì vậy.
- Cơ quan của tôi quan tâm tới một vài người mà có thể là ông đã gặp ở đó. Robert chìa tấm thẻ CIA giả của anh ra.
Kevin Paker quan sát người khách một cách thận trọng hơn. CIA có thể muốn gì ở ông ta nhỉ? Ở đâu bọn họ cũng thò mũi vào. Mình có để hở sườn không nhỉ?
Không nên chọc tức người nầy một tí nào cả. Ông ta mỉm cười.
- Mời vào. Tôi đang vội vì một cuộc hẹn, nhưng ông nói là sẽ không quá một phút phải không?
- Không, thưa ông. Tôi tin là ông đã đi một chuyến xe bus du lịch ra khỏi Zurich?
Vậy là cái chuyện đó. Chuyện cái đĩa bay kia đây. Đó là cái thứ khủng khiếp nhất mà ông ta đã từng nhìn thấy.
- Ông muốn biết về cái đĩa bay đó phải không ạ, tôi muốn nói để ông biết đó là một hiện tượng phi thường.
- Hắn là thế, nhưng nói thẳng là cơ quan chúng tôi không tin vào chuyện đĩa bay. Tôi tới đây để xem ông có thể nói gì cho tôi biết về những du khách cùng đi trên chuyến xe bus đó.
- Ồ chuyện đó thì tôi sợ là không thể giúp được ông. Tất cả họ đểu là những người lạ cả. - Paker giật mình.
- Tôi biết thế, ông Paker, - Robert nhẫn nại nói, - nhưng ông hẳn có nhớ điều gì về họ chứ.
- Có một đôi chút… Tôi nhớ là có trao đổi vài lời với một tay người Anh đã chụp ảnh cho chúng tôi. - Paker nhún vai.
Leslie Mothershed.
- Ai nữa?
- Ồ vâng. Tôi có nói chuyện chút xíu với một cô gì Nga. Cô ta có vẻ rất dễ chịu. Tôi nghi rằng cô ta làm nghề giữ thư viện ở đâu đó.
Olga Romanchanko.
- Thật tuyệt ông còn có thể nhớ tới ai nữa không, ông Paker?
- Không, tôi cho rằng thế là… - À, có hai người đàn ông. Một là người Mỹ, một ông Texas.
Dan Wyane.
- Và người kia?
- Ông ta là một người Hungary, chủ một gánh tạp kỹ, hay xiếc hay một thứ đại loại là như thế. - Ông ta cố nhớ. Đó là một gánh tạp kỹ.
- Ông có chắc thế không, ông Paker?
- Ồ chắc. Ông ta còn kề cho tôi nghe vài chuyện về công việc của mình mà. Chắc chắn là ông ta rất hồi hộp khi trông thấy cái đĩa bay ấy. Tôi nghĩ là nếu được thì ông ta đã mang nó về gánh hát của mình để làm một tiết mục phụ rồi. Tôi phải thừa nhận rằng đó là một cảnh thật kinh khủng. Đáng ra tôi phải nói về chuyện nầy nhưng tôi không thể chịu được việc bị lẫn vào cái đám người kỳ quặc nhận xằng là họ đã nhìn thấy những cái đĩa bay.
- Ông ta có tình cở cho ông biết tên mình hay không? Cái ông chủ gánh xiếc ấy.
- Có, nhưng đó là một trong những cái tên ngoại quốc không thể phát âm được. Tôi e là mình đã quên mất rồi.
- Ông còn nhớ gì nữa về ông ta không?
- Chỉ duy nhất có điều là ông ta rất vội trở về. - Ông ta đưa mắt nhìn đồng hồ. - Tôi còn có thể làm gì nữa cho ông không? Tôi đã bị muộn rồi đấy.
- Thôi, cảm ơn ông Paker. Ông đã giúp tôi rất nhiều.
- Có gì đâu ông ta cười một cách nhã nhặn với Robert. Ông phải ghé thăm tôi tại văn phòng một lúc nào đó. Chúng ta sẽ chuyện trò được lâu hơn.
- Thế nào tôi cũng đến.
Gần xong rồi, Robert nghĩ. Họ có thể nhận lấy công việc của mình và giao nó cho người khác. Đã đến lúc thu vén những gì còn lại của đời mình và bắt đầu lại từ đầu.
Robert gọi điện thoại cho tướng Hilliard.
- Tôi đã gần xong rồi, thưa tướng quân. Tôi đã tìm ra Kevin Paker. Ông ta là một chuyên gia vận động hành lang ở Washington, D.C. Tôi đang trên đường để xác minh nốt người khách cuối cùng.
- Tôi rất hài lòng, - tướng Hilliard nói. - Ông đã làm việc một cách tuyệt vời, ông sĩ quan. Hãy trở về chồ tôi càng sớm càng tốt.
- Vâng thưa ngài.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc CIA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
9. Kevin Paker - Washington, D. C.
Hết.
Khi Kevin Paker đến quán Danny, ông ta thậm chí thấy còn đông khách hơn cả tối hôm trước. Những người đàn ông lớn tuổi thì mặc những bộ đồ nghiêm túc trong khi hầu hết những người trẻ tuổi thì chỉ quần bò, áo thể thao và đi giày ống. Có một số ít trông không giống ai, mặc những bộ áo liền quần bằng da màu đen, và Paker luôn cảm thấy ghê tởm những "của" đó. Những động tác thô bạo là rất nguy hiểm và ông ta chưa bao giờ lao vào cái thứ sống gấp kỳ quặc đó.
Thận trọng, đó luôn luôn là khẩu hiệu của ông ta. Thận trọng. Cậu thanh niên đẹp trai kia vẫn chưa có ở đó nhưng Paker cũng không sốt ruột. Cậu ta sẽ đến sau, đẹp và tươi trẻ, khi những người khác đều đã mệt mỏi với những thân thể ướt đẫm mồ hôi.
Kevin Paker bước lại quầy rượu, gọi một ly và nhìn quanh. Các màn ảnh tivi trên tường đang truyền những hình ảnh của đài truyền hình MTW. Danny là một quán S và M - đứng và làm dáng. Những người trẻ tuổi lựa những dáng đứng tỏ ra quyến rũ nhất, trong khi những người già nua - người mua - sẽ ngắm nghía họ và chọn lựa. Những quán S và M là loại thượng hạng nhất. Không bao giờ có những vụ ẩu đả ở đó bởi lẽ hầu hết khách hàng đều mang theo những chiếc răng bọc vàng, và họ không khi nào muốn bị đánh gãy răng cả.
Kevin Paker để ý thấy rằng nhiều vị khách đã chọn được bạn chơi của họ. Ông ta lắng nghe những câu chuyện quen thuộc ở xung quanh, và thích thú là nó vẫn rất quen thuộc, cho dù nó diễn ra ở tiệm rượu tiệm nhảy, quán vidéo, hay ở những câu lạc bộ ngầm tuần nào cũng thay đổi địa điểm. Đó là một thứ tiếng lóng riêng biệt.
"Nữ hoàng đó thì nước non gì. Cô ta nghĩ mình là tất cả.
"Hắn xả vào tôi không phải lúc. Hắn ta giận dữ khủng khiếp. Nói những chuyện tế nhi…
"Bạn thích trên hay dưới?
"Trên. Tôi phải gọi hàng đã, em gái búng những ngón tay.
"Tốt. Tớ thích họ.
"Hắn tưởng tớ là cái đầu lọc… Đúng, đó là lối tớ về cân nặng, nước da, thái độ. Tớ bảo, "Mary, Thưa chúng ta thế là xong". Nhưng cũng đau. Vì thế nầy tớ tới đây đêm nay, cố gắng kiếm hắn nhé. Tôi có thể có thêm một ly được không?
Lúc 1 giờ sáng, cậu thanh niên kia bước vào. Cậu ta nhìn quanh và trông thấy Paker, bèn đi tới bên ông ta. Cậu ta còn xinh trai hơn là Paker nghĩ.
- Xin chào.
- Xin chào. Xin lỗi, tớ hơi muộn.
- Không sao. Tôi đợi được mà.
Chàng thanh niên rút ra một điều thuốc lá và chờ người đàn ông lớn tuổi châm lửa cho.
- Tôi đã luôn nghĩ đến cậu. - Paker nói.
- Thế hả?
Cặp lông mi của cậu ta thật lạ thường.
- Đúng thế, tôi có thể gọi cho cậu một ly chứ~
- Nếu ông thấy vui với điều đó.
- Cậu có thích làm cho tôi sung sướng không? - Paker mỉm cười.
Cậu ta nhìn thẳng vào mắt ông ta và dịu dàng nói:
- Tôi nghĩ thế.
- Tôi nhìn thấy người đàn ông đi cùng cậu ở đây đêm qua. Ông ta không hợp với cậu.
- Vậy ông sẽ hợp với tôi chứ?
- Có thể lắm. Tại sao chúng ta không thử xem nhỉ? Cậu có muốn đi dạo một chút không?
- Được đấy!
Paker rộn lên vì hồi hộp.
- Tôi biết một nơi ấm cúng và không bị ai quấy rầy.
- Tốt đấy. Tôi sẽ không uống rượu kia nữa.
Khi họ vửa bước về phía cửa trước thì hai cánh cửa đột nhiên mở toang và hai thanh niên vạm vỡ bước vào quán. Họ chắn lối cậu thanh niên.
- Đây rồi đồ chó đẻ. Tiền mầy nợ tao đâu?
- Tôi không hiểu anh định nói gì. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy anh… - Cậu ta nhìn lên, ngơ ngác.
- Đừng có nói với tao cái kiểu cứt đái đó. - Gã kia túm lấy vai cậu và lôi ra ngoài phố.
Paker giận dữ nhìn theo. Ông ta những muốn can thiệp nhưng lại không dám dính vào bất kỳ thứ gì có thể dẫn đến một vụ bê bối. Ông ta đứng chôn chân tại chỗ nhìn cậu bé mất hút vào bóng đêm.
Gã thứ hai mỉm cười với Kevin vẻ thông cảm.
- Ông nên chọn bạn cẩn thận hơn. Cậu ta là điềm gở đấy!
Paker nhìn người đang nói một cách kỹ hơn. Gã có mái tóc vàng và khá hấp dẫn, với một hình thể gần như tuyệt hảo. Paker có cảm nghĩ rằng sau cùng thì chưa hẳn là đã mất toi buổi tối nay.
- Có thể là cậu nói đúng, - Ông ta nói.
- Chúng ta không bao giờ biết số phận dành sẵn cho mình những gì, phải không nào? - Gã nhìn vào trong mắt Paker.
- Đúng thế Tôi là Tom. Tên cậu là gì?
- Paul.
- Paul nầy, tôi có thể mời cậu một ly chứ?
- Cám ơn ông.
- Cậu có chương trình đặc biệt gì cho tối nay không?
- Cái đó tuỳ ở ông.
- Cậu có muốn cùng qua đêm nay với tôi không?
- Nghe được đấy.
- Chúng ta đang nói đến bao nhiêu tiền ấy nhỉ?
- Tôi thích ông. Với ông thì hai trăm.
Ba mươi phút sau, Paul dẫn Kevin Paker vào trong một toà nhà cũ trên phố Jefferson. Họ lên thang gác, tới tầng ba và đi vào một căn phòng nhỏ. Paker nhìn quanh.
- Tuềnh toàng nhỉ? Vào một khách sạn thì hơn.
Paul nhoẻn cười.
- Ở đây riêng tư hơn. Ngoài ra thì chúng ta chỉ cần một cái giường thôi mà.
- Cậu nói đúng. Sao cậu không cởi quần áo ra đi? Tôi muốn nhìn thứ mà tôi đang mua.
- Tất nhiên. - Paul bắt đầu cởi. Gã có một thân thể tuyệt vời Paker nhìn gà và cảm thấy sự đòi hỏi quen thuộc bắt đầu dâng lên.
Bây giờ ông cởi quần áo đi, - Paul thì thầm. - Nhanh lên, tôi thèm muốn ông.
- Tôi cũng thèm muốn em, Mary. - Paker bắt đầu cởi quần áo.
- Ông thích kiểu gì? - Paul hỏi. - Trên hay dưới?
Chúng ta hãy dạo đầu một chút đã. Xin lỗi về lối nói cầu kỳ. Chúng ta có cả đêm mà.
- Tất nhiên. Tôi vào buồng tắm. - Paul nói. - Tôi sẽ trở lại ngay thôi.
Paker nằm trần truồng trên giường, chờ đợi những lạc thú tuyệt diệu sắp đến. Ông ta nghe thấy tiếng người bạn chơi ra khỏi buồng tắm và đi về phía giường. Ông ta giang tay ra.
- Lại đây với tôi, Paul, - Ông ta nói.
- Tôi đến đây.
Và Paker cảm thấy đau nhói khi có một lưỡi dao cắm vào ngực. Hai mắt ông ta mở bừng ra, rồi ngước lên, ngáp ngáp.
- Lạy Chúa, cái gì…?
Paul mặc quần áo vào.
- Đừng bận tâm về chỗ tiền, - gã nói. - Đó là tiền phòng.
° ° °
Điện khẩn.
Tối mật.
CIA gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
9. Kevin Paker - Washington D.C - Đã bị thủ tiêu
Hết.
° ° °
Robert Bellamy không kịp nghe bản tin tối bởi vì anh đã ở trên một chuyến bay đi Hungary đề tìm kiếm người chủ gánh tạp kỹ.

Chương 34
Ngày thứ mười bốn.
Buđapest
Chuyến bay từ Paris đến Buđapest bằng Hàng không Malév mất hai giờ năm phút. Robert không biết gì mấy về Hungary trừ một điều rằng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nước nầy là đồng minh trong phe Trục, và sau đó đã trở thành một chư hầu của Nga. Robert đi chuyến xe bus của sân bay về trung tâm Buđapest, và đầy ấn tượng với những gì anh thấy. Những toà nhà cũ và lối kiến trúc cổ kính. Toà nhà Quốc hội trên phố Rudolph là một công trình kiến trúc lớn theo kiểu Gôtích mới, vượt hẳn lên trên thành phố, còn trên đồi Castle là Cung điện Hoàng gia. Đường phố đầy ắp những xe cộ và những người đi mua hàng.
Chiếc xe bus dừng lại trước khách sạn Duna In tercontinental. Robert đi vào trong tiền sảnh và tiến đến bên quầy lễ tân.
- Xin lỗi, - Robert nói, - Ông có nói được tiếng Anh không?
- Igan. Có, Tôi có thể làm gì cho ông ạ?
- Một người bạn tôi đã đến Buđapest cách đây ít ngày, và anh ta khoe rằng đã được xem một buổi trình diễn tạp kỹ tuyệt vời. Tôi rất muốn được xem nó một lần. Ông có thể bảo cho tôi biết phải tìm nó ở đâu không?
Người lễ tân chau mầy.
- Tạp kỹ à? - Ông ta lấy ra một tấm bản đồ và nhìn nhanh trên đó. - Xem nào. Tại Buđapest lúc nầy, chúng tôi có một nhà hát opera, mấy nhà hát kịch, ballet, các tuyến du lịch thành phố đêm và ngày, những chuyến du ngoạn về nông thôn. - Ông ta nhìn lên. - Xin lỗi. Không có tạp kỹ.
- Ông có chắc thế không?
Người kia đưa bản danh sách cho Robert.
- Ông hãy tự nhìn xem.
Nó được viết bằng tiếng Hungary.
- Thôi được. Tôi có thể nói với ai khác về chuyện nầy không? - Robert trả lại cho ông ta.
- Bộ Văn hoá may ra có thể giúp ông được.
Ba mươi phút sau, Robert đã đang nói chuyện với một nhân viên trong văn phòng của Bộ Văn hoá.
- Không có gánh tạp kỹ nào ở Buđapest. Ông có chắc rằng bạn ông xem ở Hungary không?
- Chắc.
- Nhưng anh ta không nói rõ ở đâu à?
- Không.
- Tôi xin lỗi. Tôi không thể giúp gì cho ông. - Người nhân viên có vẻ sốt ruột. - Nếu không còn gì khác thì…
- Không. - Robert đứng dậy. - Cảm ơn ông. - Anh ngập ngừng. - Tôi còn một câu hỏi nữa. Nếu như tôi muốn mang một gánh xiếc hoặc một gánh tạp kỹ vào Hungary, tôi có phải xin phép trước không?
- Tất nhiên.
- Tôi sẽ làm việc đó ở đâu?
- Cơ quan đăng ký Buđapest.
Toà nhà của cơ quan cấp giấy phép nằm ở khu Buda gần bức tường thành thời Trung cổ. Robert phải đợi ba mươi phút trước khi anh được đưa vào phòng của một quan chức trông đầy vẻ trịnh trọng và vênh vang.
- Tôi có thể giúp ông gì nhỉ?
Robert mỉm cười.
- Tôi hy vọng là thế. Tôi không muốn làm mất thời gian của ông với một việc bình thường cỏn con nầy, nhưng tôi tới đây cùng với con trai tôi và nó có nghe về một gánh tạp kỹ đang biểu diễn đâu đó ở Hungary, và tôi đã hứa đưa nó đi xem. Ông biết trẻ con sẽ thế nào khi mà nó nghĩ một chuyện gì đó trong đầu rồi đấy.
- Thế ông muốn tôi giúp về việc gì vậy?
- Ồ nói thật với ông, dường như không có ai biết gánh tạp kỹ đó đang ở đâu, và Hungary là một đất nước lớn và tươi đẹp đến thế,… Ồ, người ta bảo tôi rằng nếu có ai đó biết mọi chuyện ở Hungary thì người đó chính là ông.
Vị quan chức gật đầu.
- Đúng. Không có những thứ như vậy được phép trình diễn nếu không có giấy phép. - Ông ta ấn nút chuông và một thư ký bước vào. Một cuộc trao đổi ngắn bằng tiếng Hungary. Cô thư ký đi ra và trở lại sau hai phút với một số giấy tờ. Cô ta trao chúng cho vị quan chức kia. Ông ta xem qua rồi nói với Robert, - Trong ba tháng vừa qua, chúng tôi đã cấp giấy phép cho hai gánh tạp kỹ. Một đã đóng cửa cách đây một tháng.
- Còn gánh kia?
Gánh kia hiện đang biểu diễn ở Sorpon. Một thị trấn nhỏ gần biên giới với Đức.
- Ông có tên của người chủ gánh không?
- Bushfekete. Laslo Bushfekete. - Vị quan chức lại nhìn vào tờ giấy.
° ° °
Lasol Bushfekete đang có những ngày sung sướng nhất trong đời. Trên đời, có ít người may mắn để được làm đúng những việc mà mình muốn làm, và Lasol Bushfekete là một trong số ít những người may mắn đó. Với chiều cao chừng một mét tám và nậng gần một trăm năm chục cân, Bushfekete nom khá to béo.
Ông ta chưng diện một cái đồng hồ đeo tay nạm kim cương, những chiếc nhẫn kim cương và một cái dầy chuyền vàng to tướng. Bố ông ta có một gánh tạp kỹ nhỏ, và khi chết đi, đã để lại cho con trai. Nó là cuộc sống duy nhất của ông ta.
Lasol Bushfekete có những giấc mơ lớn. Ông ta tính mở rộng gánh tạp kỹ nhỏ của mình thành một trong những gánh tạp kỹ lớn nhất châu Âu. Ông ta muốn được biết tới như là một ông vua của trò tạp kỹ. Tuy nhiên, lúc nầy thì ông ta chỉ có thể có những trò hấp dẫn thường thấy: Người đàn bà béo và Người đàn ông xăm mình. Hai anh em song sinh người Xiêm và Các xác ướp một nghìn năm, được đào lên từ đáy những lăng mộ ở Ai Cập cổ đại. Rồi có trò Nuốt gươm, Ăn lửa và có Marika, cô gái nhỏ bé duyên dáng với tiết mục thôi miên rắn. Nhưng sau cùng thì chẳng qua họ cũng chỉ như một gánh hát rong.
Bây giờ, chỉ qua một đêm, tất cả những thử đó sắp thay đổi. Giấc mơ của Lasol Bushfekete sắp biến thành sự thật.
Lasol đã đi Thuỵ Sĩ để quan sát một nghệ sĩ ảo thuật mà ông được nghe tới. Trong tiết mục nầy, người nghệ sĩ được bịt mắt, khoá hai tay, nhất vào trong một cái thùng nhỏ, rồi lại được bỏ vào trong một cái hòm lớn và sau cùng, tất cả được bỏ vào trong một cái bể đầy nước. Nghe qua điện thoại thì có vẻ thật hấp dẫn, nhưng khi xem tận mắt thì Bushfekete thấy có một điều không thể chấp nhận được: Người biểu diễn phải mất ba mươi phút để thoát ra ngoài. Không có khán giả nào trên thế giới nầy lại ngồi nhìn một cái hòm trong một cái bể nước suốt ba mươi phút.
Chuyến đi đó đã có vẻ hoàn toàn là một sự lãng phí về mọi thứ. Lasol Bushfekete đã quyết định làm một chuyến du ngoạn để giết thời gian chờ tới chuyến bay trở về. Và hoá ra nó đó đã làm thay đổi cuộc đời ông ta.
Giống như những du khách cùng đi, Bushfekete đã nhìn thấy vụ nổ và chạy băng qua cánh đồng đề cố gắng giúp cho những người nào còn sống sốt trong cái mà tất cả bọn họ đều nghĩ là một vụ tai nạn máy bay. Nhưng cái cảnh ngộ mà ông ta đã nhìn thấy thật là khủng khiếp. Không còn nghĩ ngờ gì, đó chính là một cái đĩa bay và trong đó là hai cái xác nhỏ bé, kỳ lạ. Những du khách đứng há hốc mồm ra nhìn.
Lasol Bushfekete thì đi vòng quanh để xem xét phía sau cái đĩa bay đó trông như thế nào, và rồi ông ta đã đứng dừng lại, trợn mắt nhìn. Khoảng ba mét phía sau cái xác con tàu, nằm trên mặt đất khuất tầm nhìn của các du khách khác, là một bàn tay nhỏ xíu bị cắt rời với sáu ngón tay và hai ngón cái đối nhau.
Thậm chí không nghĩ ngợi gì, Bushfekete rút khăn mùi xoa ra, bọc lấy cái bàn tay kia và chuồn nó vào trong cái túi hồ lô của mình. Tim ông ta đập như phát rồ. Ông ta đã có bàn tay của một sinh vật ngoài trái đất thật sự. Từ nay trở đi, mi có thể quên tất cả những người đàn bà béo, những người đàn ông xăm mình, những người nuốt gươm và ăn lửa, ông ta nghĩ. Hãy bước lên nào, các quý bà và quý ông, để được thưởng thức một lần trong đời. Cái mà các vị sẽ thấy là một thứ chưa hề có ai nhìn thấy bao giờ. Chắc vị sẽ nhìn thấy một trong những vật kỳ diệu nhất của vũ trụ.
Đó không phải là một động vật. Đó không phải là một thực vật. Đó không phải là một khoáng vật. Đó là cái gì ư? Đó là một bộ phận của thi thể một người hành tinh khắc… một sinh vật từ vũ trụ tới… Thưa các quý bà, quý ông, đây không phái là chuyện khoa học viễn tưởng, đây là chuyện có thật. Với 500 forint, các vị có thể chụp ảnh…
Và ỗng ta sực nhớ. Ông ta hy vọng là cái thằng cha thợ ảnh đã có mặt ở nơi xảy ra vụ tai nạn sẽ nhở gửi tấm ảnh mà hắn đã hứa. Ông ta sẽ cho phóng to lên và để cạnh nơi trưng bày. Điều đó thật hấp dẫn. Cái nghề mua vui cho thiên hạ. Cưộc đời là thế đó. Cái nghề mua vui cho thiên hạ.
Ông ta nóng lòng trở lại Hungary để bắt đầu thực hiện giấc mơ vĩ đại của mình.
Khi về tới nơi và mở cái khăn mùi xoa ra, ông ta thấy rằng cái bàn tay kia đã héo đi. Nhưng khi ông ta rửa sạch bụi đất, thì thật ngạc nhiên, nó lại trở nên nguyên vẹn như lúc ban đầu.
Bushfekete đã giấu bàn tay vào một nơi an toàn và đặt làm một cái hòm kính choáng lộn với một cái máy giữ ẩm riêng cho nó. Khi đã trưng bày nó xong ở gánh tạp kỹ, ông ta sẽ cùng với nó đi khắp châu Âu, khắp thế giới. Ông ta sẽ tổ chức trưng bày ở các bảo tàng. Ông ta sẽ có các buổi giới thiệu riêng cho các nhả khoa học, thậm chí có thể là cho cả các nguyên thủ quốc gia nữa. Và ông ta sẽ bắt tất cả bọn họ phải trả tiền. Cái tài sản huyền thoại của ông là không có giới hạn nào hết.
Ông ta đã không hề nói với ai về vận may của mình, ngay cả với người tình của ông ta, Marika, cô vũ nữ xinh đẹp đầy gợi cảm thường biểu diễn với những chú hổ mang và những chú rắn phì, hai loài rắn độc nguy hiểm nhất. Tất nhiên là những cái răng độc của chúng đã bị nhổ đi nhưng khán giả thì không biết điều đó vì Bushfekete cũng có giữ một con hổ mang vằn còn nguyên những chiếc răng độc. Ông ta để con rắn cho dân chúng xem không mất tiền, và nó giết chết những con chuột trước mắt họ. Chẳng có gì ngạc nhiên khi khán giả đều rợn người nhìn Marika xinh đẹp để cho những con rắn trườn trên tấm thân hở hang đầy khêu gợi của cô. Hai hoặc ba đêm trong một tuần, Marika đến lều của Bushfekete và bò trườn lên người ông ta, với cái lưỡi mềm mại như của một con rắn. Họ đã làm tình với nhau đêm hôm trước và Bushfekete vẫn còn mệt mỏi với những trò vật lộn tuyệt vời của Marika.
Dòng suy nghĩ của ông ta bị cắt ngang bởi một người khách.
- Ông là Bushfekete?
- Ông đang nói với ông ta đấy. Tôi có thể làm gì cho ông nào?
- Tôi biết là ông mới từ Thuỵ Sĩ về tuần trước.
Bushfekete lập tức cảnh giác ngay. Có người nhìn thấy mình nhặt cái bàn tay ấy chăng?
- Có chuyện gì… gì thế?
- Ông đã đi chuyến xe bus chủ nhật trước phải không?
- Phải. - Bushfekete thận trọng đáp.
Robert Bellamy nhẹ cả người. Cuối cùng thì cũng xong. Đây là nhân chứng cuối cùng. Anh đã nhận một nhiệm vụ không thể làm nổi và đã làm xong nhiệm vụ đó. Một kết quả tuyệt vời, nếu như mình tự nói về nó. Chúng ta không hề biết họ ở đâu. Hay họ là ai và anh đã tìm ra tất cả. Anh cảm thấy trút được một gánh nặng kinh khủng. Giờ thì anh tự do. Tự do trở về nhà và bắt đầu một cuộc sống mới.
- Có chuyện gì về chuyến đi của tôi hả, thưa ông?
- Không quan trọng, - Robert trấn an ông ta.
Nó không còn quan trọng nữa. Tôi quan sát tới những bạn đồng hành của ông, ông Bushfekete, nhưng bây giờ thì tôi nghĩ tôi đã có tất cả những thông tin về họ, nên…
- Ôi, trời đất ơi! Tôi có thể nói tất cả về họ cho ông, - Lasol Bushfekete nói. - Có một tu sĩ từ Orvieto, Italia, một người Đức; tôi nghĩ ông ta là một giáo sư hoá học ở Munich, một cô gái Nga, làm trong một thư viện ở Kiev, một chủ trại ở Waco, Texas, một tay chủ nhà băng Canada, ở vùng Các lãnh thổ, vả một người chuyên vận động hành lang ở Washington D. C. Tên là Kevin Paker.
Lạy Chúa, Robert nghĩ. Nếu mình vớ được ông ta ngay từ đầu thì đã đỡ bao nhiêu thời gian. Người đàn ông nầy thật lạ lùng. Ông ta nhớ tất cả bọn họ.
- Ông có trí nhớ tốt thật, - Robert nói.
- Dạ, - Bushfekete cười. - Ồ, và người phụ nữ kia nữa chứ.
- Người phụ nữ Nga.
- Không, không, người phụ nữ khác. Dáng cao, mảnh mai, trong bộ đồ trắng tinh.
Robert nghĩ một chút. Không có ai khác nói tới một người phụ nữ thứ hai cả.
- Tôi nghĩ là ông nhầm.
- Không, tôi không nhầm, - Bushfekete bướng bỉnh. - Có hai người phụ nữ ở đó.
Robert bực bội.
- Khi tay thợ ảnh kia chụp cho chúng tôi trước cái đĩa bay, cô ta đứng ngay cạnh tôi. Cô ta đẹp lắm. - Ông ta ngừng lời. - Có điều tôi không nhớ là có nhìn thấy cô ta ở trên xe hay không. Có thể là cô tả ngồi đâu đó ở phía sau. Tôi còn nhớ là trông cô ấy hơi xanh. Tôi đã hơi lo cho cô ấy.
- Khi tất cả trở về xe thì ông có thấy cô ta không? - Robert chau mầy.
- Về điều nầy thì tôi không thể nói được, bởi tôi quá xúc động với cái đĩa bay nên không còn để tâm tới gì khác nữa.
- Có chuyện gì không ổn ở đây rồi. Có thể là có mười một nhân chứng chứ không phải mười chăng? Mình sẽ phải kiểm tra lại điều đó, Robert nghĩ.
- Cám ơn ông Bushfekete, anh nói.
- Có gì đâu. Chúc may mắn.
- Cám ơn, - Bushfekete mỉm cười. Ông ta không cần may mắn. Không cần nữa. Một khi đã có cái bàn tay của một sinh vật lạ thật sự trong tay mình.
Đêm hôm đó, Robert gửi báo cáo cuối cùng cho tướng Hilliard.
- Tôi đã có tên ông ta. Lasol Bushfekete. Ông ta có một gánh tạp kỹ đang lưu diễn ở Sorpon, Hungary.
- Đó là nhân chứng cuối cùng phải không?
- Vâng, thưa ngài. - Robert lưỡng lự một giây. Anh đã toan nói tới người khách thứ tám, nhưng rồi anh quyết định phải chờ cho tới khi kiểm tra lại đã. Điều đó không chắc đã có thật.
- Cám ơn, ông sĩ quan. Tốt lắm.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc HRQ.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
10. Lasol Bushfekete.
Hết.
° ° °
Họ đến lúc nửa đêm, khi gánh tạp kỹ đã đóng cửa.
Mười lăm phút sau họ ra đi, cũng lặng lẽ như khi đến.
Lasol Bushfekete mơ ông ta đang đứng trước cửa một cái lều trắng lớn, nhìn dòng người đông nghịt xếp hàng vào cửa mua vé với cái giá 500 forint.
Đi lối nầy, các bạn. Hãy xem một phần thân thể thật sự của một sinh vật từ ngoài vũ trụ. Không phải là một bức vẽ, không phải là một bức ảnh, mà là một phần thật sự của một người vũ trụ thật sự. Chỉ 500 forint để được thưởng thức một lần trong đời, một hình ảnh bạn sẽ không bao giờ quên.
Và rồi ông ta vào giường với Marika, cả hai cùng trần truồng, và ông ta cảm thấy hai đầu vú của cô áp lên ngực, đầu lưỡi cô liếm láp trên thân thể và cô bò trườn trên khắp người ông ta. Rồi ông ta đưa tay ra với cô và hai bàn tay ông ta túm phải vật gì đó lành lạnh và trơn nhẫy. Ông ta tỉnh dậy và mở mắt, thét toáng lên, và đó chính là lúc con rắn hổ mang bổ xuống.
Người ta thấy xác ông ta vào buổi sáng hôm sau.
Cái lồng nhốt con rắn độc không bị bẻ răng trống rỗng.
Điện khẩn.
Tối mật.
HRQ gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
10. Lasol Bushfekete. Đã bị thủ tiêu
Hết.
Tướng Hilliard nhấc ống nghe trên cái máy điện thoại màu đỏ.
- Janus, tôi đã nhận được báo cáo cuối cùng từ sĩ quan chỉ huy Bellamy. Ông ta đã tìm ra nhân chứng cuối cùng. Tất cả đều đã được chăm sóc.
- Tuyệt vời. Tôi sẽ thông báo cho những nơi khác.
- Tôi muốn ông tiến hành ngay lập tức phần kế hoạch còn lại của chúng ta.
- Vâng, ngay lập tức đây.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc: SIFAR, MI- 6, GRU, CIA, COMSEC, DCI, CGHQ, BFV.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
11. Sĩ quan chỉ huy Robert Bellamy - thủ tiêu.

Chương 35
Ngày thứ mười lăm.
Robert Bellamy ở vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Có thể có một nhân chứng thứ mười một không nhỉ? Và nếu có thì tại sao lúc trước không hề có ai khác nhắc tới cô ta? Người nhân viên bán vé cho chuyến xe bus đó đã nói với anh rằng chỉ có bẩy hành khách. Robert tin rằng tay chủ gánh tạp kỹ đã nhầm lẫn. Lờ nó đi thật là một việc dễ dàng với giả thiết rằng điều đó không có thật, nhưng quá trình huấn luyện của Robert lại không cho phép làm thế. Anh quả có kỷ luật. Câu chuyện của Bushfekete phải được kiểm tra lại. Bằng cách nào? Robert đã rất băn khoăn về chuyện đó. Hans Beckerman. Người lái chiếc sẽ đó sẽ biết.
- Anh đăng ký điện thoại gọi cho Hãng Sunshine. Trụ sở hãng đóng cửa. Trong danh bạ vùng Kapel không có một Hans Beckerman nào cả. Mình sẽ phải đi Thuỵ Sĩ một lần nữa và giải quyết chuyện nầy, Robert nghĩ. Mình không thể bỏ bất kỳ một dấu vết gì.
Khi Robert đến tới Zurich thì trời đã khuya. Bầu không khí lạnh và trong lành, trăng sáng. Robert thuê một chiếc xe và chạy theo con đường giờ đây đã quen dẫn tới cái làng Kapel nhỏ bé. Anh chạy ngang ngôi nhà thờ và dừng lại trước cửa nhà Hans Beckerman, hiểu rằng mình đang bám vào một sự cầu may. Căn nhà tối om. Robert gõ cửa và chờ. Anh gõ cửa một lần nữa, run lên vì không khí lạnh giá của trời đêm.
Sau cùng thì vợ Beckerman cũng ra mở cửa. Chị ta choàng trên người một cái áo choàng vải thô bạc màu.
- Dạ?
- Chị Beckerman, tôi không biết chị có còn nhớ tôi không? Tôi là người phóng viên đang viết bài về Hans đây. Xin lỗi vì đã làm phiền chị vào lúc khuya khoắt thế nầy, nhưng thật tôi rất cần nói chuyện với chồng chị.
- Chỉ có sự im lặng đáp lời anh.
- Chị Beckerman?
- Hans chết rồi.
- Cái gì hả? - Robert giật mình.
- Chồng tôi chết rồi rồi, tôi xin lỗi. Làm sao?
- Xe của Hans đã đâm xuống một triền núi. - Giọng chị ta thật đau đớn. - Cảnh sát nói đó là vì trong cơ thể anh ấy toàn chất ma tuý.
- Ma tuý à?
Loét dạ dầy. Các bác sĩ thậm chí không thể cho tôi thuốc giảm đau nữa. Tôi phần ứng với tất cả nhưng thứ đó..
- Cảnh sát nói đó là tai nạn à?
- Dạ.
Họ có tiến hành mổ giám định không?
- Có, và họ tìm thấy ma tuý. Chẳng có ý nghĩa gì.
- Anh không còn biết nói thế nào.
- Tôi thật lấy làm buồn, chị Beckerman. Tôi…
Cánh cửa đóng lại, còn Robert một mình giữa trời đêm giá lạnh.
- Một nhân chứng đã chết. Không - hai. Leslie Mothershed đã chết trong một vụ cháy. Robert ngẫm nghĩ hồi lâu. Hai nhân chứng đã chết. Anh như nghe thấy tiếng người huấn luyện viên ở Trang trại: "Còn một điều nữa tôi muốn nói tới hôm nay. Sự trùng hợp. Trong công việc cửa chúng ta, không có cái thứ đó. Nó thường báo hiệu sự nguy hiểm. Nếu anh cứ luôn gặp một người, hoặc phát hiện vẫn chiếc xe ấy khi anh đang hoạt động, hãy che lấy cái mông mình. Có thể anh đang gặp rắc rối đó"
Có thể đang gặp rắc rối. - Robert bị chi phối bởi một loạt những cảm xúc đầy mâu thuẫn. Điều đã xảy ra phải là sự trùng hợp, và tuy vậy… Mình phải kiểm tra về cái người khác bí ẩn đó.
° ° °
Cú điện thoại đầu tiên của anh là gọi tới Fort Smith, Canada. Một giọng phụ nữ đầy vẻ quẫn trí trả lời:
- Dạ?
- Xin cho gặp William Mann.
- Rất tiếc. Chồng tôi, chồng tôi không còn với chúng tôi nữa. - Giọng nói kia nghẹn ngào.
- Tôi không hiểu bà nói gì.
- Ông ấy đã tự sát.
Tự sát? Tay chủ nhà băng sắt đá đó mà tự sát? Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra ấy nhỉ? Robert nhăn trán. Điều mà anh hình dung là không thể chấp nhận nổi, tuy nhiên… Anh bắt đầu gọi hết cú điện thoại nầy đến cú điện thoại khác.
° ° °
- Xin cho gặp giáo sư Schmidt.
- Ồ giáo sư đã chết trong một vụ nổ ở phòng thí nghiệm…
° ° °
- Tôi muốn nói chuyện với Dan Wayne.
- Thật tội nghiệp. Con ngựa đua đã giày chết ông ta cách đây…
° ° °
- Xin cho gặp Laslo Bsshfekete.
- Gánh tạp kỹ đóng cửa rồi. Laslo đã chết…
° ° °
- Xin cho gặp Fritz Mandel.
- Fritz đã bị chết trong một tai nạn quái dị…
Lúc nầy những dấu hiệu báo động đã là rõ ràng.
° ° °
- Olga Romanchanko.
- Cô bé tội nghiệp. Và cô ấy còn trẻ thế mà…
° ° °
- Tôi gọi đến để xem tình hình Cha Patrini.
- Linh hồn tội nghiệp đó đã ra đi trong giấc ngủ.
° ° °
- Tôi cần nói chuyện với Kevin Parker.
- Kevin đã bị giết…
Chết. Tất cả mọi nhân chứng đều đã chết. Chính anh là người đã phát hiện và xác minh về họ. Tại sao anh lại không biết chuyện gì đang xảy ra? Bởi vì bọn khốn kiếp kia chờ anh rời khỏi một nước nào đó rồi mới hành quyết các nạn nhân của chúng. Người duy nhất mà anh báo cáo công việc là tướng Hilliard.
"Chúng ta không được để bất kỳ ai khác dính vào sứ mệnh nầy… Tôi muốn ông hàng ngày báo cáo công việc cho tôi".
Họ đã dùng anh để tìm ra các nhân chứng. Đằng sau tất cả những chuyện nầy là thế nào? Otto Schmidt đã bị giết chết ở Đức. Hans Beckerman và Fritz Mandel ở Thuỵ Sĩ. Olga Romanchanko ở Nga, Dan Wayne và Kevin Parker ở Mỹ, William Mann ở Canada, Leslie Mothershed ở Anh, Cha Patrini ở Italia và Laslo Bushfekete ở Hungary. Điều đó có nghĩa là các cơ quan an ninh của gần một chục nước đã dính líu vào một vụ bưng bít lớn nhất trong lịch sử. Một ai đó ở cấp rất cao đã quyết định rằng tất cả các nhân chứng vụ đĩa bay kia phải chết. Nhưng ai? Và vì sao?
Đó là một âm mưu cỡ quốc tế và mình đang nằm trong cái âm mưu đó.
Ưu tiên: Chui vào vỏ bọc. Robert thật khó tin nổi là họ định giết luôn cả anh nữa. Anh là một người trong số họ. Nhưng cho đến khi đã nghĩ tới chuyện đó thì không thể mạo hiểm. Việc đầu tiên phải làm là kiếm một tấm hộ chiếu giả. Điều đó có nghĩa là phải tìm đến Ricco ở Rome.
Robert lên chuyến bay xuất cảnh tiếp theo và thấy phải cố gắng để thức. Anh đã không nhận ra mình kiệt sức đến thế nào. Áp lực của suốt mười lăm ngày qua, chưa kể sự chênh lệch thời gian do việc đi lại bằng máy bay, đã làm cho anh kiệt quệ.
Máy bay đáp xuống sân ga Leonardo da Vinci, và khi anh bước vào nhà ga, người đầu tiên anh nhìn thấy là Susan. Anh dừng lại, sững sờ. Cô quay lưng lại phía anh, và trong một khoảnh khắc, anh đã nghĩ là mình nhầm. Và rồi anh nghe thấy cô nói.
- Cảm ơn. Tôi có xe đón rồi.
- Susan… - Robert bước lại bên cô.
Cô quay lại, giật mình.
- Robert. Thật là tình cờ làm sao. Nhưng là một sự kinh ngạc đáng yêu.
- Anh nghĩ em đang ở Gibraltar kia mà?
Cô gượng cười.
- Vâng. Chúng em đang trên đường tới Áo, nhưng Monte có chút việc cần phải làm ở đây trước đã. Tối nay chúng em sẽ lên đường. Anh làm gì ở Rome thế?
- Anh đang lo nốt một chút cỏng việc.
Chạy trốn vì cái mạng sống của anh. Đó là công việc cuối cừng của anh đấy. Anh đã thôi rồi, em yêu ạ. Từ giờ, chúng mình sẽ luôn ở bên nhau, và không gì có thể chia cắt chúng ta nữa. Hãy bỏ Monte và trở về với anh đi! Nhưng anh không thể nói nên lời. Anh đã gây cho cô đủ điều rồi. Cô đang hạnh phúc với cuộc sống mới của cô. Hãy cứ để như thế, Robert nghĩ.
- Trông anh mệt mỏi lắm. - Cô nhìn anh chăm chú.
- Anh vừa phải chạy loăng quăng một chút. - Anh mỉm cười.
Họ nhìn vào trong mắt nhau, và điều kỳ diệu kia vẫn còn đó. Sự thèm khát cháy bóng, và những kỷ niệm, tiếng cười cùng sự thông cảm.
Susan cầm lấy tay anh trong hai bàn tay cô và dịu dàng nói:
- Robert. Ôi, Robert. Em muốn chúng mình…
- Susan…
Và đúng lúc đó, một người đàn ông vạm vỡ trong bộ đồng phục tài xế bước đến bên Susan.
- Thưa bà Banks, xe đã sẵn sàng.
- Cám ơn. - Cô quay sang Robert. - Em xin lỗi. Em phải đi bây giờ đây. Xin anh tự chăm sóc lấy mình.
- Chắc chắn rồi.
Anh đứng nhìn theo cô. Có bao nhiêu điều anh muốn nói với cô. Cuộc sống đầy những chuyện có tính chất thời điểm. Thật vui lại được thấy Susan, nhưng mà có chuyện gì trong đó khiến anh thấy lo lẳng nhỉ? Tất nhiên rồi. Sự trùng hợp. Lại một sự trùng hợp.
Anh gọi taxi đi về khách sạn Hassler.
- Chúc mừng đã trở lại, ông sĩ quan.
- Cám ơn.
- Tôi sẽ cho một người hầu phòng mang hành lý cho ông.
- Khoan! - Robert nhìn đồng hồ. 10 giờ tối. Anh muốn lên gác và ngủ một giấc, nhưng trước hết anh phải lo chuyện hộ chiếu đã.
- Tôi sẽ không lên trên phòng ngay. - Robert nói. - Tôi muốn ông cho người mang hành lý lên trước đi.
- Tất nhiên, thưa ông sĩ quan.
Khi Robert vừa định quay đi thì cửa thang máy bật mở và một nhóm khách ào ra, cười nói ầm ĩ. Ro ràng là họ đã uống một vài cốc. Một tròng số họ, dáng người mập, mặt đỏ gay, vẫy vẫy Robert.
- Xin chào anh bạn thân… vui vẻ chứ?
- Tuyệt vời, - Robert đáp. - Tuyệt vời đấy.
Robert bước ra, tới bên chiếc taxi đỗ bên ngoài.
Khi anh vừa định chui vào xe thì chợt để ý thấy một chiếc Opel màu xám trông rất bình thường đậu phía bên kia đường. Trông nó hơi bình thường quá mức. Nó đậu giữa những chiếc xe sang trọng, thênh thang.
- Phố Monte Grappa. - Robert nói với người lái xe. Trên đường, Robert nhìn qua tấm kính sau xe. Không có chiếc Opel xám nào cả. Mình đang trở nên hoảng hốt quá, Robert nghĩ. Khi họ tới phố Monte Grappa, Robert ra khỏi xe ở đầu phố. Khi trả tiền người lái xe, anh nhìn qua khoé mắt: chiếc Opel màu xám cách xa chừng nửa đoạn phố, tuy nhiên anh có thể thề rằng nó không hề theo dõi anh. Trả tiền xong, anh rời khỏi chiếc taxi và bắt đầu thong thả bước đi, thỉnh thoảng đừng lại để ngó vào các ô kính cửa hàng cửa hiệu.
Qua sự phản chiếu của một ô kính, anh thấy chiếc Opel đang từ từ đi theo anh. Khi Robert tới góc phố tiếp theo, anh để ý thấy đó là con phố với đường một chiều. Anh rẽ vào đó theo hướng ngược lại với dòng xe cộ đông đúc. Chiếc Opel lưỡng lự ở góc phố và rồi lao vọt đi đến đón Robert ở đầu đằng kia. Robert quay ngược trở lại và đi về phố Monte Grappa. Không còn thấy chiếc Opel kia đâu nữa.
Robert vẫy chiếc taxi khác:
- Tới phố Monticelli.
Toà nhà đó đã cũ kỹ và trông không mấy thiện cảm, một di sản còn lại của những ngày đã qua. Trước đây trong nhiều chuyến công tác, Robert đã đến nơi nầy. Anh bước xuống ba bậc của một tầng hầm và gõ cửa. Một con mắt xuất hiện ở lỗ nhòm trên cánh cửa và một giây sau cánh cửa mở toang ra.
- Roberto. - Một người đàn ông kêu lên. Ông ta choàng tay ôm lấy Robert. - Khoẻ không, anh bạn của tôi?
Đó là một người đàn ông to béo ở độ tuổi 60 với bộ râu lởm chởm trắng xoá, đôi lông mầy rậm, bộ răng vàng khè và cái cằm béo núc. Ông ta đóng cửa và khoá trái lại.
- Tôi khoẻ, Ricco.
Ricco không có họ. "Với một người như tôi, ông ta thường khoác lác, Chỉ cần cái tên cộc lốc đó là đủ. Cũng giống như Garbo vậy".
- Hôm nay tôi có thể làm gì cho anh vậy, anh bạn?
- Tôi đang có một phi vụ. - Robert nói, - Và tôi đang rất vội. Ông có thể làm cho tôi một hộ chiếu không?
Ricco mỉm cười.
- Giáo hoàng có phải tín đồ Thiên Chúa giáo không hả? - Ông ta lạch bạch đi tới cái tủ kê ở góc phòng và mở khoá tủ. - Anh muốn mang quốc tịch nào đây?
Ông ta lôi ra một mớ hộ chiếu với các bìa khác nhau và lựa lựa từng quyển. - Chúng ta có một hộ chiếu Hy Lạp, rồi Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư, Anh…
- Mỹ. - Robert nói.
Ricco rút ra một quyển hộ chiếu có bìa màu xanh da trời.
- Đây. Cái tên Arthur Butterfield có hấp dẫn anh không thế?
- Tốt rồi. - Robert đáp.
- Anh đứng dựa vào tường đi, tôi sẽ chụp hình cho anh.
Robert bước đến bên tường. Ricco mở ngăn kéo và lấy ra chiếc máy ảnh Polaroid. Một phút sau, Robert cầm xem tấm ảnh của mình.
- Không thấy tôi cười. - Robert nói.
- Cái gì hả? - Ricco nhìn anh, ngạc nhiên.
- Tôi đã không cười. Chụp cái khác đi.
- Được thôi. Tuỳ ý anh. - Ricco nhún vai.
- Có khá hơn. - Robert mỉm cười khi bức ảnh thứ hai được chụp. Anh nhìn tấm ảnh và nói, rồi thản nhiên nhét tấm ảnh đầu vào túi.
- Bây giờ đến phần kỹ thuật cao, - Ricco tuyên bố rồi bước tới bàn làm việc. Ông ta đặt tấm ảnh vào mặt trong quyển hộ chiếu.
Robert bước tới một cái bàn khác, ngổn ngang những dụng cụ hành nghề của Ricco và tuồn một lưỡi dao cạo cùng một lọ keo dán trong trong túi áo khoác.
Ricco đang xem xét sản phẩm của ông ta.
- Không tồi. - Ông ta nói rồi trao cho Robert quyển hộ chiếu. - Năm nghìn đôla.
- Và hoàn toàn đáng giá. - Robert đáp trong lúc đếm 10 tờ 500 đôla.
- Làm việc với người của các anh thật dễ chịu.
- Anh biết là tôi quý anh.
Robert biết chính xác là ông ta đang nghĩ gì về anh. Ricco là một thợ giày thiện nghệ, làm việc cho gần một chục chính phủ - Và chẳng trung thành với chính phủ nào. Anh đút quyển hộ chiếu vào túi áo.
- Chúc may mắn, ông Butterfield. - Ricco mỉm cười.
- Cám ơn.
Ngay khi cánh cửa khép lại sau lưng Robert, Ricco vớ lấy điện thoại. Thông tin luôn là tiền bạc đối với ai đó.
Bên ngoài, đi được chừng hai chục mét, Robert lấy quyển hộ chiếu mới ra khỏi túi và dúi nó vào trong một thùng rác. Nhiễu. Đó là một kỹ thuật mà khi là một phi công anh đã dùng để tạo những cái đuôi giả cho tên lửa của đối phương. Hãy để cho họ săn lùng Arthur Butterreld.
Chiếc Opel xám dừng cách chừng nửa đoạn phố.
Chờ đợi. Không thể thế được.
Robert tin chắc rằng chiếc xe đó là cái đuôi duy nhất. Anh đã chắc chắn là chiếc Opel đã bị mất dấu, vậy mà nó vẫn tìm ra. Họ phải có một cách nào đó để bám theo từng bước đi của anh. Câu trả lời duy nhất: Họ đã dùng một thứ máy phát nào đó, và anh phải luôn mang nó theo người. Nó được gắn vào quần áo của anh chăng? Không. Họ không có cơ hội nào cả Đại uý Dougherty đã có mặt lúc anh sắp xếp hành lý nhưng anh ta không thể biết Robert sẽ mang theo bộ quần áo nào. Robert thầm kiểm kê lại những gì mà anh mang theo người - tiền mặt, chìa khoá, một cái ví khăn mùi xoa, thẻ tín dụng… Chiếc thẻ tín dụng.
"Tôi không nghĩ là tôi cần đến nó, thưa tướng quân" - "Cầm lấy. Vã hãy luôn giữ nó trong người".
Đồ chó đẻ gian xảo. Không có gì lạ khi họ tìm được anh dễ dàng như vậy.
Không còn nhìn thấy chiếc Opel xám nữa. Robert lấy tấm thẻ tín dụng ra, xem xét nó. Nó hơi dầy hơn một tấm thẻ tín dụng thông thường. Hơi vặn nó một chút, anh có thể cảm thấy một lớp gì đó bên trong.
Họ sẽ điều khiền từ xa cho tấm thẻ hoạt động. Tốt.
Robert nghĩ. Hãy để cho bọn khốn nạn nầy bận bịu.
Có mấy cái xe vận tải đỗ dọc trên phố đang bốc và dờ hàng. Robert nhìn những biển số xe. Khi tới bên một chiếc xe tải với biển số của Pháp, anh nhìn quanh để chắc chắn là mình không bị quan sát rồi ném tấm thẻ lên trên thùng xe.
- Cho đến khách sạn Hassler. - Anh vẫy một chiếc taxi.
° ° °
Ttrong tiền sảnh, Robert bước tới chỗ người gác cửa.
- Làm ơn xem đêm nay có chuyến bay nào đi Paris không nhé.
- Vâng, ông sĩ quan. Ông có chọn hãng hàng không cụ thể nào không?
- Hãng nào cũng được. Chuyến bay đầu tiên là đủ.
- Tôi rất sung sướng được lo chuyện nầy.
- Cám ơn. - Robert bước đến chỗ tiếp tân. - Xin cho chìa khoá phòng tôi. Phòng 314. Và tôi sẽ trả phòng trong vài phút nữa thôi.
- Dạ, thưa ông Bellamy. - Người nhân viên với tay lên một ô và lấy ra chìa khoá cùng một cái phong bì. - Đây, có một cái thư cho ông.
Robert nghiêm mặt. Chiếc phong bì được dán kín và được ghi rất đơn giản. "Sĩ quan chỉ huy Bellamy"
Anh nắn nhẹ xem có chất dẻo hoặc thứ kim loại gì bên trong hay không, rồi thận trọng mở nó ra. Bên trong là một tấm các quảng cáo về một nhà hàng Italia.
Hoàn toàn bình thường. Tất nhiên, trừ cái tên của anh trên phong bì.
- Anh có nhớ ai đưa cho anh cái nầy không?
- Tôi xin lỗi. - Người nhân viên nói với vẻ ân hận. - Nhưng quả thật là tối nay chúng tôi bận rộn quá…
Điều đó không quan trọng. Người đàn ông kia sẽ chẳng nhớ ra bộ mặt nào cả. Hắn ta đã nhặt tờ quảng cáo ở đâu đó cho nó vào phong bì rồi đứng ngay cạnh quầy và chờ xem chiếc phong bì đó được cho vào cái ô mang số phòng bao nhiêu.
Lúc nầy hắn ta hẳn đang chờ trong trong của Robert.
Đã đến lúc nhìn mặt kẻ thù.
Robert nghe thấy những tiếng nói ồn ào, anh quay lại và thấy đám khách say rượu lúc trước đang đi vào tiên sảnh, vừa cười vừa hát. Rõ ràng là họ đã uống thêm ít nữa. Người đàn ông mập nói:
- Kìa, chào anh bạn. Anh đã lỡ một tiệc vui.
Robert tính toán rất nhanh trong đầu.
- Anh thích hội hè à?
- Hô hô.
- Có một cuộc ra trò đang diễn ra trên lầu. - Robert nói. Rượu mạnh, gái… - bất kỳ thứ gì mà các anh muốn. Cứ việc đi theo tôi, các bạn.
- Đó chính là lối chơi của người Mỹ, anh bạn. - Người đàn ông vỗ vỗ vào lưng Robert. - Nghe thấy chứ, các chàng trai? Anh bạn của chúng ta đây chiêu đãi một cuộc.
Họ chen chúc nhau cùng vào thang máy và đi lên tầng ba.
Người đàn ông say rượu nói:
- Những người Italia nầy rõ ràng là biết phải sống như thế nào. Tôi đoán là họ đã phát minh ra những cuộc hội hè, phải không?
- Tôi sẽ cho các bạn thấy một cuộc vui thật sự. - Robert hứa.
Họ đi theo dọc hành lang tới trước phòng anh.
Robert tra chìa khoá vào ổ và quay lại nói với tất cả bọn họ:
- Các bạn đã sẵn sàng vui một chút chứ?
Những tiếng trả lời "có" đồng thanh cất lên.
Robert quay chìa, đẩy cửa mở và đứng sang một bên. Căn phòng tối om. Anh bật điện lên. Một người lạ mặt cao và gầy đứng giữa phòng với một khẩu Mode có gắn ống giảm thanh rút ra nửa chừng. Người đàn ông đó nhìn đám đông với vẻ mặt thảng thốt và đẩy nhanh khẩu súng vào trong áo khoác.
- Nầy. Rượu đâu hả? - Một trong những người say kia hỏi.
Robert chỉ vào gã lạ mặt.
- Anh ta có đó. Đến mà lấy.
Cả bọn xông về phía gã kia.
- Rượu đâu, anh bạn…
- Gái đâu?…
- Hãy kiếm cuộc liên hoan nầy ở ngoài đường…
Gã kia cố lách tới chỗ Robert nhưng đám đông đã cản hắn lại. Gã bất lực nhìn theo trong khi Robert khoá cửa từ bên ngoài. Anh lao xuống cầu thang hai bậc một.
Dưới nhà, trong tiền sảnh, Robert đang đi ra cửa thì người gác gọi to. "Ồ, ông Bellamy, tôi đã đặt vé cho ông rồi đấy. Ông đi chuyến bay 312 của Hàng không Pháp đi Paris. Chuyên bay khởi hành lúc một giờ sáng."
- Cám ơn, - Robert đáp vội.
Anh đi ra ngoài và vào các quảng trường nhỏ phía trước những bậc thềm Tây Ban Nha. Một chiếc taxi đang để một người khách xuống. Robert chui vào ngay.
- Phố Monte Grappa.
Giờ đây, anh đã có câu trả lời của mình. Họ định giết anh. Họ sẽ không thấy việc đó dễ dàng. Lúc nầy anh đã là kẻ bị săn đuổi thay vì anh là người đi săn, nhưng anh có một lợi thế lớn. Họ đã huấn luyện anh kỹ lưỡng. Anh biết tất cả những thủ thuật của họ, những điểm mạnh và những điểm yếu, và anh sẽ dùng kiến thức đó để chặn họ lại. Đầu tiên anh phải tìm cách không để chúng bám đuôi. Những kẻ săn lùng anh chắc phải được nghe một câu chuyện gì đó. Họ sẽ được bảo là anh bị truy nã về tội buôn ma tuý, hoặc giết người, hoặc là hoạt động gián điệp. Họ sẽ được cảnh cáo trước: Hắn ta rất nguy hiểm. Đừng để lỡ cơ hội. Hảy bắn hạ ngay.
- Nhà ga Rome. - Robert nói với người lái taxi.
Họ đang săn lùng anh, nhưng họ sẽ chưa đủ thời gian để phân phát ảnh của anh. Cho đến lúc nầy, anh không bị nhận diện.
Chiếc taxi dừng lại trước toà nhà số 36 phố Giovanni Giolitti và người lái xe nói:
- Thưa ông, nhà ga đây rồi.
- Chúng ta hãy đợi một phút. - Robert ngồi lại trong xe, quan sát mặt tiền của nhà ga. Dường như chỉ có những hoạt động bình thường. Mọi thứ đều có vẻ bình thường. Taxi và những chiếc xe hòm kính đang đến và đi, đưa và đón khách. Những người khuân vác đang bốc và xếp hành lý. Một cảnh sát đang bận rộn ra lệnh cho những chiếc xe rời khỏi khu vực cấm đỗ. Nhưng có gì đó đã làm cho Robert lo ngại. Anh chợt nhận thấy điểm không bình thường của toàn bộ bức tranh. Ba chiếc xe lớn không biển số đỗ ngay đối diện với nhà ga, trong khu vực cấm đỗ và không có ai trong xe. Viên cảnh sát phớt lờ chúng.
- Tôi thay đổi ý định rồi. - Robert nói với người lái taxi - Tới số 110/A phố Veneto.
Đó là nơi khó có ai đến tìm kiếm anh.
Đại sứ quán Mỹ và toà lãnh sự Mỹ được bố trí trong một toà nhà màu hồng trên phố Veneto, với một hàng rào sắt đen ngòm trước mặt. Vào giờ nầy thì toà đại sứ đã đóng cửa, nhưng bộ phận hộ chiếu của nó thì làm việc suốt hai mươi tư giờ để giải quyết những trường hợp khẩn cấp. Trong lối vào ở tầng một, một người lĩnh thuỷ quân lục chiến ngồi sau bàn.
Người lính nhin lên khi Robert tiến đến gần.
- Thưa ông, tôi có thể giúp ông?
- Vâng. - Robert nói - Tôi muốn hỏi về việc xin hộ chiếu mới. Tôi bị mất hộ chiếu.
- Ông là công dân Mỹ?
- Phải.
Họ sẽ lo chuyện của ông ở trong đó. Phòng cuối cùng. - Người lính chỉ một văn phòng phía xa.
- Cám ơn.
Có dăm bảy người ở trong cái phòng đó xin hộ chiếu, báo mất hộ chiếu, và xin thị thực, xin gia hạn…
- Tôi có cần xin thị thực đến Anbani không? Tôi có bà con ở đó…
- Tôi muốn cái hộ chiếu nầy được gia hạn tối nay.
- Tôi phải đi một chuyến bay…
- Tôi không hiểu thế nào nữa. Hẳn là tôi đã mất nó ở Milan…
- Họ đã lấy cái hộ chiếu ngay trong ví của tôi…
Robert đứng nghe. Trộm cắp hộ chiếu là cái trò phổ biến ở Italia. Phải có ai đó trong số nầy sắp được nhận hộ chiếu mới. Đứng đầu hàng là một người đàn ông đứng tuổi, quần áo lịch thiệp đang được trao một quyển hộ chiếu.
- Của ông đây, thưa ông Cowan. Tôi lấy làm tiếc là ông đã gặp chuyện rủi ro như thế. Tôi e là ở Rome có nhiều kẻ cắp lắm đấy.
- Tôi sẽ phải cẩn thận để chúng không thể lấy được quyển nầy. - Cowan nói.
- Ông nên như thế, thưa ông.
Robert để ý nhìn Cowan cho quyển hộ chiếu vào trong túi áo khoác và quay người định bước đi. Robert bước đến trước mặt ông ta. Khi một phụ nữ lấn tới, Robert chúi vào người Cowan như thể anh bị đẩy và làm ông ta suýt ngã.
- Tôi thật xin lỗi. - Robert nói. Anh cúi xuống chỉnh lại xống áo cho ông ta.
- Không sao. - Cowan nói.
Robert quay đi và bước vào nhà vệ sinh nam giới ở cuối hành lang, tấm hộ chiếu của ông kia đã ở trong túi anh. Anh nhìn quanh để có thể tin chắc rằng chỉ có một mình, rồi bước vào một trong các buồng vệ sinh. Anh lấy ra lưỡi dao cạo và lọ keo dán mà đánh cắp của Ricco. Rất cẩn thận, anh rạch miếng vỏ nhựa và lấy tấm ảnh của Cowan ra. Sau đó, anh cho tấm ảnh của anh mà Ricco đã chụp vào. Anh dủng keo dán mép tấm bìa lại như cũ và kiểm tra lại. Hoàn hảo. Giờ đây, anh đã là Henry Cowan. Năm phút sau, anh đã ở trên phố Veneto, chui vào một chiếc taxi.
- Ra sân bay.
Lúc 12 giờ 30, Robert tới sân bay Leonardo da Vinci.
Anh đứng bên ngoài, kiểm tra xem có gì bất thường không. Bề ngoài, mọi thứ đều tỏ ra bình thường. Không có xe cảnh sát, không có những người đàn ông đáng ngờ. Robert đi vào nhà ga và dừng lại ngay bên trong cửa. Có nhiều quầy vé của nhiều hãng hàng không nằm rải rác trong khu ga. Không có ai lảng vảng hay ẩn sau những chiếc cột. Anh đứng nguyên tại chỗ, cảnh giác. Anh không thể giải thích được, thậm chí là cho chính mình, nhưng dù sao chăng nữa thì mọi việc có vẻ quá bình thường.
Ngang phía bên kia phòng là quầy vé của Hàng không Pháp. "Ông đi chuyến bay 312 của Hàng không Pháp. Chuyến bay khởi hành lúc một giờ sáng".
Robert tiến đến chỗ một phụ nữ mặc đồng phục đang ngồi sau quầy vé của Hàng không ltalia.
- Xin chào.
- Xin chào. Tôi có thể giúp ông không, thưa ông?
Có Robert nói:
- Xin cô cho gọi ông sĩ quan Robert Bellamy tới chỗ buồng điện thoại miễn phí được không?
- Tất nhiên. - Cô ta đáp, rồi nhấc chiếc micrô lên.
Cách đó vài mét, một phụ nữ béo tuổi trung niên đang kiểm tra lại mấy cái vali, cãi cọ gay gắt với nhân viên hàng không về tiền quá cước.
- Ở Mỹ, họ không bao giờ bắt trả tiền quá cước cả.
- Tôi xin lỗi, thưa bà. Nhưng nếu bà muốn mang theo tất cả những túi nầy thì bà phải trả thêm cho số quá trọng lượng.
Robert đến gần hơn. Anh nghe thấy giọng cô nhân viên trên loa phóng thanh.
"Mời sĩ quan Robert Bellamy tới buồng điện thoại miễn phí màu trắng. Sĩ quan Bellamy, xin mời tới buồng điện thoại miễn phí màu trắng".
Lời thông báo đó vang vang trong khắp nhà ga sân bay.
Một người đàn ông với một cái túi khoác đang đi ngang chỗ Robert.
- Xin lỗi. - Robert nói.
- Có gì vậy? Người đàn ông quay sang.
- Tôi nghe vợ tôi đang nhắn tìm tôi, nhưng, - anh chỉ đám túi của người đàn bà, - tôi không thể bỏ hành lý ở đây được. Anh rút ra một tờ 10 đôla và đưa nó cho người kia - Nhờ ông làm ơn tới cái buồng điện thoại màu trắng kia và nói với cô ấy là một tiếng nữa tôi sẽ đón cô ấy tại khách sạn, được chứ. Tôi thật sự biết ơn ông.
Người đàn ông kia nhìn tờ bạc 10 đôla trong tay.
- Được thôi.
Robert nhìn anh ta đi vào buồng điện thoại và nhấc máy lên. Anh ta áp ống nghe vào tai và nói:
- Hêlô?… Hêlô?…
Một giây sau, bốn người đàn ông to lớn mặc đồ đen không biết từ đâu xuất hiện và ập tới, áp chặt người đàn ông không may kia vào tường.
- Nầy. Cái gì thế?
- Hãy yên lặng nào. - Một người đàn ông trong số kia nói.
- Các ông đang làm cái trò gì thế hả? Bỏ tay khỏi người tôi ngay.
- Đừng làm rộn lên, ông sĩ quan. Không ích gì…
- Sĩ quan? Các ông đã nhầm người rồi. Tên tôi là Melvyn Davis. Tôi ở Omaha.
- Thôi đừng giở trò.
- Đợi một phút. Tôi đã bị lừa rồi. - Người đàn ông mà các ông tìm ở kia kla. - Anh ta chỉ tay về chỗ Robert đứng lúc trước.
Không có ai ở đó cả.
Bên ngoài nhà ga, một chiếc xe bus của sân bay đang sắp sửa khởi hành. Robert lên xe, đứng lẫn vào những hành khác khác. Anh tìm chỗ ngồi ở cuối xe, tập trung nghĩ tới bước đi tiếp theo.
- Anh nóng lòng muốn được nói chuyện với Đô đốc Whittaker để thử tìm câu trả lời về những gì đang diễn ra, đề biết ai là kẻ phải chịu trách nhiệm trong việc giết hại những người vô tội chỉ vì họ đã chứng kiến cái mà họ đáng ra không được nhìn. Đó là tướng Hilliard chăng? Dustin Thorton? Hay bố vợ Thornton, Willard Stone, cái con người đầy bí ân. Có thể lão ta, bằng cách nào đó, có dính dáng vào vụ nầy chăng? Hay đó là Edward Sanderson, giám đốc NSA? Họ có thể cùng phối hợp với nhau không? Nó có lên cao tới cấp Tổng thống không? Robert cần những câu trả lời.
Chiếc xe bus chạy một tiếng mới tới Rome. Khi xe dừng trước khách sạn Eden, Robert xuống xe.
Mình phải rời khỏi nước nầy, Robert nghĩ. Chỉ có một người duy nhất ở Rome là anh còn có thể tin cậy.
Đại tá Francesco Cesar, thủ trưởng SIFAR, cơ quan an ninh Italia. Ông ta sẽ giúp Robert thoát khỏi đây.
° ° °
Đại tá Cesar làm việc khuya. Những bức điện tới tấp đi và đến giữa các cơ quan an ninh các nước, và tất cả đều liên quan tới sĩ quan Robert Bellamy.
Đại tá Cesar đã từng làm việc với Robert trước đây và ông ta rất quý anh. Cesar thở dài khi ông ta xem xét bức điện mới nhất để trước mặt. Thủ tiêu. Và trong khi ông ta đang đọc điện thì thư ký của ông ta bước vào:
- Sĩ quan Bellamy đang chờ ngài trên đường dây số một.
Đại tá Cesar trợn mắt nhìn cô thư ký:
- Bellamy? Chính anh ta à? Thôi được.
Ông ta đợi cô thư ký ra khỏi phòng, và chộp lấy điện thoại.
- Robert?
- Chào Francesco. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra thế?
- Anh trả lời tôi thì có, anh bạn. Tôi đã và đang nhận đủ loại thông báo về anh. Anh đã làm gì vậy?
- Đó là một câu chuyện dài. - Robert nói - Và tôi không có thởi gian. Ông đã nghe những gì thế?
- Rằng anh đã tách riêng. Rằng anh đã bị tuyển loại và đang hót như một con hoàng yến vậy.
- Cái gì hả?
- Tôi nghe nói anh đã có một hợp đồng với người Trung Quốc và…
- Lạy Chúa. Thật là lố bịch.
- Thế hả? Tại sao?
- Bởi vì một giờ trước đây họ còn đang khát khao có thêm thông tin mà.
- Hãy vì Chúa, Robert. Không phải chuyện đùa đâu.
- Hãy nói đi, Francesco. Tôi vừa mới đẩy mười người vô tội tới chỗ chết. Người ta dự kiến tôi là người thứ mười một đấy.
- Anh đang ở đâu?
- Tôi ở Rome. Có vẻ như tôi không thể nào rời khỏi cái thành phố khốn kiếp nầy của ông.
- Thế đấy. - Có một sự im lặng nặng nề. - Tôi có thể làm gì để giúp anh?
- Đưa tôi tới một ngôi nhà an toàn, nơi chúng ta có thể nói chuyện, và tôi có thể tính xem sẽ đi khỏi đây bằng cách nào. Ông lo được chuyện đó không?
- Được nhưng anh phải cẩn thận. Rất cẩn thận. Tôi sẽ đích thân đón anh.
- Cám ơn Francesco. Tôi thật sự biết ơn. - Robert thở phào nhẹ nhõm.
- Như người Mỹ các anh nói, anh nợ tôi một. Anh đang ở đâu?
- Quán Lido ở Trastevere.
- Cứ đợi ở đó. Đúng một tiếng nữa tôi sẽ đến.
- Cám ơn ông bạn của tôi. - Robert cúp máy. Nó sẽ là một tiếng dài chờ đợi.
Ba mươi phút sau, hai chiếc xe không biển số dừng lại cách tiệm Lido chừng chục mét. Trong mỗi chiếc xe có bốn người đàn ông và tất cả đều mang súng tiểu liên.
Đại tá Cesar ra khỏi chiếc xe đi đầu.
- Hãy làm cho nhanh. Đừng để ai khác bị thương.
- Cứ bắn hạ ngay.
Một nửa bọn họ lặng lẽ đi vòng ra phía sau ngôi nhà.
Từ trên tầng thượng của một toà nhà phía bên kia đường, Robert Bellamy đứng quan sát Cesar và đám lính của ông ta lăm lăm súng trong tay ập vào trong quán. Được, thằng khốn kiếp. Robert giận dữ nghĩ, chúng ta sẽ chơi theo lối của mầy.


Chương 36
Ngày thứ mười sáu.
Rome, Italia.
Từ quảng trường Duomo, Robert gọi điện cho đại tá Cesar từ một buồng điện thoại công cộng.
- Chuyện bạn bè có gì thế? - Robert hỏi.
- Đừng giả bộ, anh bạn. Tôi chấp hành mệnh lệnh, cũng như anh thôi. Tôi có thể đảm bảo với anh rằng việc chạy trốn của anh là không ích gì. Anh đứng đầu danh sách truy nã của tất cả các cơ quan tình báo. Tới một nửa các chính phủ trên thế giới nầy đang tìm kiếm anh.
- Ông có tin rằng tôi là một kẻ phản bội không?
Casar thở dài.
- Tôi tin hay không thì đâu có nghĩa gì, Robert. Đây không hề có chuyện cá nhân. Tôi phải chấp hành mệnh lệnh.
- Xoá sổ tôi?
- Anh có thể làm nó trở thành nhẹ nhàng hơn bằng cách tự nộp mình…
- Cám ơn, đồ đểu. Nếu còn cần lời khuyên, tôi sẽ hỏi han đầu gối mình. - Anh dập máy xuống.
Robert hiểu rằng anh còn lẩn trốn lâu bao nhiêu thì càng ở trong tình thế nguy hiểm hơn bấy nhiêu.
Các nhân viên an ninh của cả gần một chục nước đang khép chặt vòng vây quanh anh.
Phải có một cái cây nào đó, Robert nghĩ. Ý tưởng nầy xuất phát từ chuyện kể về một người thợ săn trong một cuộc đi săn ở Châu Phi. "Con sư tử đã chạy trốn. Tôi không có súng và cũng không có chỗ nào để trốn. Xung quanh không hề có lấy một bụi rậm hay một cái cây nào. Và con thú đang lao thẳng tới chỗ tôi, mỗi lúc một gần hơn". "Anh đã thoát được như thế nào?", một người nghe chuyện hỏi. "Tôi chạy tới một cái cây gần nhất và trèo lên" - "Nhưng mà anh nói là không có cái cây nào cơ mà". - "Cậu không hiểu. Phải có một cái cây nào đó". Và mình phải tìm được nó, Robert nghĩ.
- Anh nhìn quanh quảng trường, giờ nầy đã vắng ngắt. Anh cho rằng đã đến lúc phải nói chuyện với người đã đẩy anh vào cơn ác mộng nầy, tướng Hilliard.
Nhưng anh sẽ phải cẩn thận. Kỹ thuật điện tử cho phép dò tìm một máy điện thoại đang hoạt động gần như ngay tức thời. Robert để ý thấy cả hai buồng điện thoại gần buồng mà anh đang đứng trong đều bỏ không.
Tuyệt. Bỏ qua số điện thoại riêng mà tướng Hilliard đã trao cho anh, anh quay số tổng đài của NSA. Khi nhân viên tổng đài trả lời, Robert nói:
- Xin cho văn phòng tướng Hilliard.
Một phút sau, anh nghe thấy tiếng một thư ký.
- Văn phòng tướng Hilliard.
Robert nói.
- Xin chờ điện thoại tử nước ngoài gọi đến.
- Anh thả treo chiếc ống nói và chạy đến cái buồng điện thoại cạnh đấy. Anh nhanh chóng quay lại cái số đó
Một cô thư ký khác trả lời máy:
- Văn phòng tướng Hilliard.
- Xin giữ máy chờ điện thoại gọi từ nước ngoài, - Robert nói. Anh để chiếc ống nói treo lủng lẳng và bước vào buồng thứ ba, quay số. Khi một thư ký khác nữa trả lời, Robert nói:
- Đây là sĩ quan Bellamy. Tôi muốn nói chuyện với tướng Hilliard.
Một tiếng kêu ngạc nhiên.
- Xin chờ một chút, thưa ông sĩ quan.
Người thư ký ấn nút máy nội bộ.
- Thưa ngài, sĩ quan Bellamy đang trên đường dây số ba.
Tướng Hilliard đưa mắt nhln Harrison Keller.
- Bellamy đang trên kênh số ba. Bắt đầu dò tìm ngay, nhanh lên.
Harrison Keller lao đến bên một chiếc điện thoại trên bàn phụ và quay số gọi Trung tâm Điều phối Mạng thông tin, hoạt động liên tục hai mươi tư giờ trong ngày. Viên sĩ quan cao cấp đang trực ban trả lời máy.
- Trung tâm điều phối đây. Adams.
- Dò tìm khẩn cấp một cú điện thoại gọi đến sẽ phải mất bao nhiêu lâu? - Keller thầm thì.
- Khoảng một hai phút.
- Bắt đầu đi. Văn phòng tướng Hilliard, đường số ba. Tôi sẽ chờ. Anh ta nhìn ông tướng và gật đầu.
Tướng Hilliard nhấc máy.
- Ông sĩ quan, phải không?
Tại Trung tâm điều phối, Adams cho một con số vào trong máy tính.
Ông ta nói:
- Chúng ta bắt đầu.
- Tôi nghĩ đã đến lúc ngài và tôi cần nói chuyện, thưa tướng quân.
- Tôi sung sướng là òng đã gọi, ông sĩ quan. Tại sao ông không đến đây và chúng ta có thể bàn về chuyện nầy nhỉ? Tôi sẽ thu xếp một máy bay cho ông và ông có thể có mặt ở đây trong…
- Không, cảm ơn. Quá nhiều tai nạn xảy ra cho các chuyến bay, thưa tướng quân.
Trong phòng thông tin, ESS - hệ thống tìm kiếm điện tử đã được bắt đầu hoạt động. Màn ảnh của máy tính bắt đầu sáng lên. AX 121 - B… AX 122 - C… AX 123 - C…
- Thế nào? - Keller thì thầm vào ống nói.
Trung tâm điều phối thông tin New Jersey đang tìm kiếm những cú điện thoại đường dài ở khu vực Washington. D.C. Giữ máy.
Màn ảnh trắng xoá đi. Rồi dòng chữ "Điện thoại đường dài từ ngoại quốc trên kênh một" hiện lên trên màn ảnh.
Cú điện thoại đang được gọi đến từ đâu đó ở Châu Âu. Chúng tôi đang tlm xem ở nước nào…
Tướng Hilhard đang nói:
- Ông Bellamy, tôi cho rằng có một sự hiểu lầm. Tôi có một đề nghị…
Robert cúp máy:
Tướng Hilliard nhìn sang Keller.
- Đã kiếm được chưa?
Harrison nói vào trong máy nối với Adams.
- Thế nào rồi?
- Chúng ta đã mất hắn.
Robert bước vào buồng điện thoại thứ hai và cầm ống nói.
Thư ký của tướng Hilliard nói.
- Sĩ quan Bellamy ở kênh số hai.
- Ông sĩ quan hả?
- Hãy để tôi có một đề nghị, - Robert nói. - Tướng Hilliard đưa tay bịt chặt ống nói.
- Bắt đầu lại việc dò tìm đi.
Harrison nhấc máy và nói với Adams. "Ông ta lại gọi. Kênh hai. Nhanh lên".
- Được. Thưa tướng quân, đề nghị của tôi là ngài hãy cho tất cả người của ngài lui. Và tôi muốn ngay bây giờ.
- Tôi nghĩ là ông đã hiểu lầm tình hình rồi, ông sĩ quan. Chúng ta có thể dàn xếp chuyện nầy nếu…
- Tôi sẽ nói với ngài chúng ta phải dàn xếp như thế nào. Hiện có lệnh thủ tiêu tôi. Tôi muốn ngài huỷ nó đi.
Tại trung tâm điều phối thông tin, màn ảnh của máy tính đưa ra một thông tin mới: AX 155 - C Nhánh A21 đã được xác định. Tổ hợp 301 tới Rome. Kênh Đại Tây Dương 1.
- Chúng ta kiếm được rồi, - Adams nói vào trong máy. - Chúng ta đã dò tìm ra kênh dẫn tới Rome.
- Kiếm cho tôi số máy và nơi đặt máy, - Keller nói với ông ta.
Tại Rome, Robert đưa mắt nhìn đồng hồ.
- Ngài đã trao cho tôi một nhiệm vụ. Tôi đã thực hiện nó.
- Ông thực hiện rất tốt, ông sĩ quan. Đây là điều tôi…
Đường dây vụt chết lặng.
Viên tướng quay sang Keller.
- Hắn lại cúp rồi.
Keller nói vào trong máy ông đã kiếm được chưa hả?
- Nhanh quá, thưa ông.
Robert bước vào buồng điện thoại tiếp theo và nhấc máy.
Giọng cô thư ký của tướng Hilliard xuất hiện trong máy nội bộ.
- Sĩ quan Bellamy trên đường dây số 1, thưa tướng quân.
Viên tướng quát lên:
- Tìm thằng chó đẻ ngay.
Ông ta nhấc máy:
- Ông sĩ quan hả.
- Tôi muốn ngài nghe: thưa tướng quân, và nghe một cách kỹ càng. Ngài vừa giết một số người vô tội. Nếu ngài không cho người của ngài lui ngay, tôi sẽ đến với giới báo chí và nói cho họ biết chuyện gì đang xảy ra.
- Tôi sẽ không khuyên ông làm như thế, trừ phi ông muốn bắt đầu một sự hoảng loạn trên toàn thế giới. Những sinh vật lạ kia là có thật và chúng ta bất lực trước họ. Họ đang sẵn sàng tiến hành các bước đi của họ. Ông không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu những tin nầy lọt ra ngoài.
- Cả ngài cũng vậy thôi, - Bellamy vặn lại. - Tôi không để cho ngài có lựa chọn nào cả. Nếu như còn một vụ mưu sát đối với tôi, tôi sẽ cho công bố mọi chuyện.
- Thôi được, - Tướng Hilliard nói. - Ông thắng.
- Tôi sẽ huỷ bỏ. Tại sao lại không được nhỉ? Chúng ta có thể…
- Bộ máy dò tìm của ngài lúc nầy hẳn đang làm việc rất tốt, - Robert nói. - Chúc một ngày tốt đẹp.
Liên lạc bị cắt.
- Đã kiếm được chưa? - Keller quát vào trong máy.
- Gần tới, thưa ông. Hắn gọi từ một khu vực ở trung tâm Rome. Hắn đã liên tục thay máy gọi cho chúng ta. - Adams đáp.
Viên tướng nhìn sang Keller.
- Thế nào?
- Xin lỗi tướng quân. Chúng ta chỉ biết rằng ông ta đang ở đâu đó tại Rome. Ngài có tin lời đe doạ của ông ta không? Chúng ta có huỷ kế hoạch đối với ông ta không?
- Không. Chúng ta sẽ trừ khử hắn.
° ° °
Robert rà lại những khả năng lựa chọn của mình.
Chúng thật là ít ỏi. Họ sẽ giám sát các sân bay, các nhà ga, các tuyến xe bus và các hăng cho thuê xe.
- Anh không thể thuê phòng ở khách sạn bởi vì SIFAR hẳn đã đưa ra các thông báo. Tuy nhiên, anh phải rời khỏi Rome. Anh cân có một vỏ bọc. Một người bạn đồng hành. Họ sẽ không để ý tới một người đàn ông và một người đàn bà đi cùng nhau. Đó là lúc bắt đầu.
Một chiếc taxi đang đỗ nơi góc phố, Robert vò rối mái tóc, kéo trễ cà vạt xuống, và đi loạng choạng như người say rượu đến bên chiếc taxi.
- Nầy, anh kia, - Anh gọi. - Anh kia.
Người lái xe nhìn anh vẻ khinh miệt.
Robert lôi ra một tờ 20 đô la và ấn nó vào tay người lái xe.
- Nầy anh bạn, tôi muốn cưỡi một chút. Anh có hiểu không hả? Anh có biết chút tiếng Anh nào không đấy?
Người lái xe nhìn tờ bạc.
- Ông muốn có một người đàn bà?
- Anh hiểu đúng đấy, anh bạn. Tôi muốn có một người đàn bà.
- Được thôi, Người lái xe nói.
Robert chui vào và xe chuyển bánh. Anh nhìn lại phía sau. Không có ai bám theo. Đầu óc anh căng thẳng.
Một nửa số các chính phủ trên thế giới nầy đang tìm kiếm anh". Và không có quyền chống án nào cả. Mệnh lệnh đối với họ là hạ sát anh.
Hai mươi phút sau, họ tới To di Ounto, một khu vực "đèn đỏ" của Rome, toàn đĩ điếm các loại. Họ chạy tiếp tới đường Archeologica, và người lái xe dừng lại ở đầu đường.
- Ông sẽ tìm thấy một người đàn bà ở đây, - anh ta nói.
- Cám ơn anh bạn. - Robert trả tiền theo số đo trên đồng hồ và loạng choạng ra khỏi xe. Nó lao đi với tiếng bánh xe rít lên.
Robert nhìn quanh, xem xét đường phố. Không có cảnh sát. Một vài chiếc xe và một vài người bộ hành.
Hơn một chục cô gái điếm đang đi lại trên phố.
Trên tinh thần "Hãy quây những đối tượng thường xuyên lại", cảnh sát cứ hai tháng một lần lại càn quét để làm hài lòng những tiếng nói đạo đức và đưa đĩ điếm từ phố Veneto đầy lộ liễu tới khu vực nầy, nơi họ sẽ không xúc phạm những bà quý phái ngồi uống trà ở tiệm Doney. Vì lý do đó, hầu hết các tiểu thư nầy đều rất hấp dẫn và ăn mặc tử tế. Có một cô làm cho Robert phải để ý.
Cô ta có vẻ mới ngoài hai mươi, mái tóc dài màu sẫm, mặc chiếc váy màu đen và chiếc áo khoác ngắn màu trắng dễ trông, và ngoài cùng là một cái áo khoác bằng lông lạc đà. Robert đoán cô ta là một diễn viên hoặc một người mẫu nghiệp dư. Cô ta đang nhìn Robert.
Robert loạng choạng lại gần cô ta.
- Chào cô bé, - anh lè nhè. Cô em có nói tiếng Anh được không?
- Có
- Tốt. Em và anh, chúng ta sẽ có một cuộc vui chứ.
Cô mỉm cười ngập ngừng. Những người say rượu có thể gây rắc rối.
- Có thể là ông nên tỉnh táo lại trước đã. - Cô ta có một giọng nói thật mềm mại.
- Nầy, anh đủ tỉnh táo đấy nhé! Ông sẽ phải trả đủ một trăm đôla.
- Được thôi, em yêu.
Cô ta có một quyết định trong đàu.
- Tốt. Nào đi. Có một khách sạn ngay đằng đầu phố.
- Tuyệt vời. Tên cô em là gì thế?
- Pier.
- Còn anh là Henry. - Một chiếc xe cảnh sát xuất hiện ở đằng xa, chạy lại phía họ. - Chúng ta hãy đi khỏi đây.
Hai người phụ nữ khác nhìn một cách ghen tị trong khi Pier và người khách Mỹ kéo nhau đi.
Khách sạn đó không phải là Hassler, nhưng thằng bé mặt đầy mụn ngồi ở cái bàn dưới nhà đã không đòi trình hộ chiếu. Thực tế, cậu ta chỉ hơi ngước nhìn lên lúc đưa chìa khoá cho Pier.
- Năm mươi ngàn lia.
Pier nhìn Robert. Anh lấy tiền đưa cho thằng bé.
Căn phòng mà họ đi vào có một cái gường lớn kê ở góc phòng, một cái bàn nhỏ, hai cái ghế gỗ và một cái gương treo phía trên bồn tắm. Có một cái mắc treo quần áo ở sau cánh tủ.
- Ông phải trả tiền trước.
- Tất nhiên. - Robert đếm ra một trăm đôla.
- Cám ơn.
Pier bắt đầu cởi váy áo. Robert bước đến bên cửa sổ. Anh gạt tấm rèm sang một bên và nhìn ra. Mọi thứ có vẻ bình thường. Anh hy vọng là cho đến lúc nầy cảnh sát đang bám theo chiếc xe tải màu đỏ trên đường trở về Pháp. Robert thả tấm rèm ra và quay lại Pier đã trần truồng. Cô có một thân thể đẹp đến ngạc nhiên. Đôi vú trẻ trung, chắc nịch, bộ mông tròn trặn, một cái eo nhỏ và cặp chân dài, thon thả.
Cô nhìn Robert.
- Sao ông không cởi quần áo ra, Henry?
- Đây là đoạn phải mẹo nói thật với cô, - Robert nói, - tôi nghĩ là tôi đã uống hơi nhiều một chút. Tôi không thể làm gì với cô được.
Cô ta nhìn anh với ánh mắt cảnh giác.
- Vậy sao ông lại…
- Nếu tôi ở lại đây và ngủ một chút, chúng ta có thể làm tình vào buổi sáng.
Cô nhún vai.
- Em còn phải làm việc. Em sẽ mất tiền.
- Không sao. Tôi sẽ lo chuyện đó. - Anh đếm ra mấy tờ một trăm đôla và đưa cho cô. - Như thế là đủ chứ?
Pier nhìn số tiền và tính toán trong đầu. Thật cám dỗ. Ngoài kia trời lạnh mà lại còn ế khách. Mặt khác người đàn ông nầy có điều gì đó rất lạ. Đầu tiên là thực ra anh ta có vẻ không say. Anh ta ăn mặc thật đẹp, và với ngần ẩy tiền, anh ta có thể thuê buồng cho họ ở một khách sạn tốt. Ô, Pier nghĩ, thì việc quái gì?
- Được Chỉ có mỗi cái giường nầy cho hai chúng ta thôi.
- Thế là tốt rồi.
Pier nhìn Robert lại bước đến bên cửa sổ và vén góc tấm rèm sang một bên.
- Ông đang tìm kiếm cái gì à?
- Có cửa sau ra khỏi khách sạn không?
Mình đang chui vào cái chuyện gì thế nầy? Pier băn khoăn. Người bạn thân nhất của cô đã bị bọn du đãng giết chết. Pier vẫn tự cho mình là hiểu cách xử sự của đàn ông, nhưng người nầy đã làm cho cô lúng túng. Anh ta có về không giống một tên tội phạm, thế nhưng vẫn…
- Vâng, có. - Cô ta đáp.
Có một tiếng thét đột ngột và Robert vội ngoái lại.
- Dio. Dio. Sono venuta tre volte. - Đó là một giọng nữ, từ phòng bên cạnh vẳng qua những bức tường giấy mỏng dính.
- Cái gì thế? - Tim Robert bắt đầu đập nhanh.
- Chị ta đang sung sướng. Chị ta nói rằng vừa có cơn khoái cảm lẩn thứ ba đấy. - Pier nhoẻn cười.
Robert nghe thấy tiếng giường cọt kẹt dữ đội.
- Ông sẽ đi ngủ chứ? Pier đứng đó, trần truồng nhìn anh, không hề ngượng ngập.
- Tất nhiên. - Robert ngồi xuống giường.
- Ông không cởi quần áo ra à?
- Không.
- Tuỳ ông thôi. - Pier đến bên giường và nằm xuống bên cạnh Robert. - Em mong là ông đừng ngáy, - Pier nói.
- Cô có thể nói với tôi về điều đó vào lúc sáng ra.
Robert không có ý định ngủ. Anh muốn kiểm tra đường phố trong đêm để tin chắc rằng họ đã không mò tới đây. Sau cùng thì họ cũng sẽ lần tới những khách sạn hạng ba nầy, nhưng nó cũng sẽ còn làm cho họ mất khối thời gian. Họ có quá nhiều chỗ phải để mắt tới trước đã. Anh nằm đó, cảm thấy xương cốt mỏi nhừ và nhắm mắt lại để nghỉ một chút. Anh thiếp đi. Anh đã trở về nhà, trong giường của mình và anh cảm thấy thân thể nóng ấm của Susan ở bên. Cô ấy đã trở về, anh sung sướng nghĩ. Cô ấy đã trở về với mình. Em yêu, anh nhớ em quá.
° ° °
Ngày thứ mười bảy
Rome, Italia.
Robert thức giấc vì ánh nắng mặt trời soi vào mặt.
Anh bật ngồi dậy, hoảng hết nhìn quanh trong một giây ngỡ ngàng. Khi nhìn thấy Pier, trí nhớ lập tức trở lại. Anh nhẹ nhõm cả người. Pier đang đứng chải đầu trước gương.
- Chúc một ngày tốt đẹp. - Cô ta nói. - Không thấy ông ngáy.
Robert nhìn đồng hồ. 9 giờ sáng. Anh đã lãng phí những thời gian quý báu.
- Ông có muốn làm tình bây giờ không? Ông đã trả tiền mà.
- Thế nầy là được rồi. - Robert nói.
Pier vẫn trần truồng, đầy khêu gợi, bước lại bên giường - Thật không ông?
- Nếu như muốn thì tôi cũng không thể, cô gái ạ. Đúng thế.
- Cũng được. - Cô ta vừa mặc quần áo vừa hỏi với vẻ bình thản. - Susan là ai thế?
- Câu hỏi đó làm anh bị bất ngờ.
- Susan? Vì sao cô lại hỏi thế?
- Ông đã nói ra trong lúc ngủ.
- Anh nhớ lại giấc mơ của mình. Susan đã trở vể với anh. Có thể đó là một tín hiệu.
- Cô ấy là một người bạn.
Cô ấy là vợ tôi. Cô ấy sắp chán cái thằng cha Cái Túi tiền và một ngày nào đó sẽ trở về với tôi. Nghĩa là nếu như tôi còn sống được.
Robert bước đến bên cửa sổ. Anh vén tấm rèm và nhìn ra ngoài. Lúc nầy, đường phố đã đông đúc khách bộ hành và các cửa hàng cửa hiệu đã mở cửa. Không có dấu hiệu nguy hiểm nào.
Đã đến lúc bắt tay vào kế hoạch, anh quay lại cô gái.
- Pier, cô có thích có một chuyến đi nho nhỏ với tôi không?
Cô ta nhìn anh, nghi hoặc.
- Một chuyến đi. Đi đâu?
- Tôi phải đi Venice vì công việc, và tôi không thích đi một mình. Cô có thích Venice không?
- Có.
- Tốt. Tôi sẽ trả tiền cho thời gian của cô, và chúng ta sẽ có một kỳ nghỉ ngắn với nhau. - Anh lại chăm chú nhìn ra cửa sổ. - Tôi biết một khách sạn đáng yêu ở đó Khách sạn Cipriani.
Mấy năm trước, anh và Susan đã ở tại khách sạn Hoàng gia Danieli, sau anh đã có lần trở lại và thấy nó xuống cấp nghiêm trọng, còn giường mềm thì không thể chịu nổi. Điều duy nhất còn lại của những gì hấp dẫn trước đó là Luciano, ngồi tại quầy tiếp tân.
- Ông sẽ phải trả một nghìn đôla một ngày. - Dù trong lòng cô sẵn sàng chấp nhận với cái giá năm trăm.
- Đồng ý. - Robert nói. Anh đếm ra hai ngàn đôla - Ta hãy bắt đầu thế nầy nhé.
Piér lưỡng lự. Cô ta đã linh cảm thấy rằng có chuyện gì đó Nhưng người ta đã hoãn lại việc khởi sự quay bộ phim mà cô được hứa cho một vai phụ trong đó, và cô lại cần tiền. "Đồng ý," cô ta nói.
- Chúng ta đi nào.
Dưới nhà, Pier thấy anh quan sát đường phố thận trọng trước khi bước ra vẫy một chiếc taxi. Ông ta là mục tiêu của một kẻ nào đó, Pier nghĩ, mình phải thôi vụ nầy mới được.
- Nầy, - Pier nói. - Tôi không chắc là tôi có thể đi Venice với ông được. Tôi…
- Chúng ta sẽ có một khoảng thời gian thú vị mà, Robert nói.
Thẳng ngay bên kia phố, anh nhìn thấy một tiệm kim hoàn. Anh nắm lấy tay Pier.
Đi nào. Tôi sẽ kiếm cho cô một cái gì đó thật đẹp.
- Nhưng.
Anh dẫn cô băng qua đường vào cửa hàng trang sức. Người bán hàng đứng sau quầy nói:
- Xin chào, thưa ông. Tôi có thể giúp ông ạ?
- Phải, - Robert nói. - Chúng tôi muốn tìm kiếm một thử gì đó đáng yêu cho tiểu thư đây. Em có thích ngọc lục bảo không?
- Em, có.
- Anh có một cái vòng lục bảo nào không? - Robert nói với người bán hàng.
- Có thưa ông. Tôi có một cái vòng lục bảo rất đẹp Anh ta bước lại bên một cái tủ và lấy nó ra. - Đây là cái đẹp nhất của chúng tôi. Mười lăm ngàn đôla.
- Em có thích nó không? - Robert nhìn Pier.
Không nói nên lời, cô gật đầu.
- Chúng tôi sẽ lấy. - Robert nói. Anh đưa cho người bán hàng tấm thẻ tín dụng ONI của anh.
- Xin chờ một phút. - Người bán hàng đi vào một phòng ở phía sau. Khi trở ra, anh ta nói. - Tôi sẽ gói nó lại cho ông, hay…
- Không cô bạn tôi sẽ đeo nó. - Robert nói và lồng nó vào cổ tay Pier. Cô ta nhìn nó chằm chằm, sững sờ.
- Trông nó sẽ đẹp hơn ở Venice, có phải thế không? - Robert nói với cô ta.
Pier ngẩng lên mỉm cười với anh.
- Rất đẹp.
Khi họ đã ra ngoài phố, Pier nói:
- Em… em không biết phải cảm ơn anh thế nào.
- Tôi chỉ muốn cô vui, - Rỏbert nói. Cô có xe không?
- Không. Em từng có một chiếc xe cũ, nhưng nó đã bị đánh cắp.
- Cô vẫn có bằng lái xe chứ?
- Vâng, nhưng mà không có xe thì cái bằng nào có ích gì? - Cô nhìn anh ngạc nhiên.
- Rồi cô sẽ thấy. Chúng ta hây đi khỏi đây.
- Anh vẫy một chiếc taxi.
- Đến phố Po.
Cô ta ngồi trong taxi, quan sát anh. Sao ông ta lại muốn có cô đi cùng đến thế nhỉ? Thậm chí ông ta đã không sờ đến cô. Có thể ông ta…?
- Dừng lại. - Robert kêu người lái xe. Họ đang ở cách Hãng cho thuê xe ô tô Maggiore chừng một trăm mét.
- Ta sẽ xuống đây. - Robert nói với Pier. Anh trả tiền tắcxi và chờ cho nó đi khuất. Anh đưa cho Pier một xấp tiền dầy. - Tôi muốn cô thuê một chiếc xe cho chúng ta. Hãy hỏi lấy một chiếc Fiat hoặc một chiếc Alfa Romeo. Hãy nói với họ là chúng ta sẽ dùng trong bốn hoặc năm ngày. Chỗ tiền nầy đủ cho khoản trả trước. Hãy thuê nó bằng tên của cô. Tôi sẽ chờ ở cái quán đôl diện bên nầy đường.
Cách đấy không đầy tám dẫy phố, hai thám tử đang tra xét người tài xế bất hạnh của chiếc xe tải màu đỏ mang biển số Pháp.
- Tôi không biết gì hết. Tôi không hiểu thế quái nào mà cái thẻ kia lại có trên thùng xe của tôi. - Người lái xe kêu lên. - Hẳn là một gã Italia điên khùng nào đó đã làm chuyện nầy.
Hai thám tử nhìn nhau. Một trong hai người nói:
- Tôi sẽ gọi điện báo cáo về việc nầy.
° ° °
Francesco Cesar ngồi trước bàn làm việc, ngẫm nghĩ về những diễn biến mới nhất. Thoạt đầu, công việc có vẻ thật đơn giản. "Các ngài sẽ tìm được hắn ta không chút khó khăn gì. Vào lức thích hợp, chúng tôi sẽ cho cái thiết bị phát tín hiệu kia hoạt động, và nó sẽ dẫn các ngài tới thẳng chỗ hắn". Rõ ràng là ai đó đã đánh giá thấp sĩ quan chỉ huy Bellamy.
Đại tá Frank Johnson đang ngồi trong văn phòng tướng Hilliard, vóc người to lớn của ông ta choán hết cả cái ghế.
Chúng ta đã dùng tới một nửa số nhân viên ở châu Âu để săn lùng hắn. - Tướng Hilliard nói. - Cho tới nay thì họ vẫn chưa gặp may.
- Chỉ may mắn cũng không đủ. - Đại tá Johnson nói. - Bellamy rất cừ.
- Chúng ta biết hắn hiện ở Rome. Thằng chó đẻ đó đã mua một cái vòng với giá mười lăm ngàn đôla.
- Chúng ta đã vây chặt hắn. Hắn không có lối nào để thoát khỏi Italia hết. Chúng ta biết cái tên, đang dùng trên hộ chiếu của hắn - Arthur Butterfield.
Đại tá Johnson lắc đầu.
- Nếu tôi không nhầm về Bellamy thì ngài không thể có một manh mối gì về cái tên mà anh ta đang dùng. Điều duy nhất ngài có thể chắc chắn là Bellamy sẽ không làm điều mà ngài tin rằng anh ta sẽ làm. Chúng ta đang săn đuổi một người ngang tầm với người giỏi nhất trong nghề. Có thể là còn hơn thế. Nếu có nơi nào để thoát, Bellamy sẽ chạy đến đó. Nếu có nơi nào để ẩn náu, Bellamy sẽ ẩn náu ở đó. Tôi nghĩ cách tốt nhất cho chúng ta là đưa anh ta ra công khai, để phát hiện. Cho đến lúc nầy, anh đã đang khống chế tất cả các bước đi. Chúng ta phải dành quyền chủ động khỏi tay anh ta.
- Ý ông nỏi là công bố à? Trao cho báo chí à?
- Đúng vậy!
- Chuyện đó sẽ rất nhạy cảm: Chúng ta không thể chấp nhận việc bị lộ mặt.
Tướng Hillard bặm môi.
- Chúng ta sẽ không phải bộc lộ mình. Chúng ta sẽ đưa ra một thông báo, rằng anh ta bị truy nã về tội buôn lậu ma tuý. Với cách đó, chúng ta có thể đưa Tổ chức Cảnh sát Quốc tế và tất cả các cơ quan cảnh sát ở châu Âu vào cuộc mà không hề lộ ra bàn tay của chúng ta.
Tướng Hilliard ngẫm nghĩ một lát.
- Tôi thích ý kiến đó.
- Tốt quá. Tôi sẽ đi Rome. - Đại tá Johnson nói. - Tôi sẽ đích thân phụ trách cuộc săn lùng nầy.
Khi đại tá Frank Johnson trở về văn phòng riêng, ông tỏ ra trầm tư hẳn. Không còn nghi ngờ gì nữa.
Ông phải tìm cho được sĩ quan chỉ huy Bellamy.

Chương 37
Robert nghe tiếng chuông điện thoại réo mãi. Lúc nầy là 6 giờ sáng ở Washington. Mình luôn luôn đánh thức ông già dậy sớm, Robert nghĩ.
Sau hồi chuông thứ sáu thì vị đô đốc trả lời máy.
- Hello.
- Thưa đô đốc, tôi Robert.
- Cái gì…
- Đừng nói gì cả. Điện thoại của ngài có thể bị gắn máy nghe trộm. Tôi sẽ nói rất nhanh thôi. Tôi muốn nói với ngài đừng tin vào bất kỳ điều gì họ nói về tôi. Tôi muốn ngài cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Sau nầy có thể tôi cần tới sự giúp đỡ của ngài.
- Tất nhiên. Bất kỳ việc gì mà tôi có thể làm được, Robert.
- Tôi biết. Tôi sẽ gọi lại cho ngài sau.
Robert gác máy. Không đủ thời gian để bị dò tìm.
- Anh nhìn thấy một chiếc Fiat màu xanh dừng lại bên ngoài quán. Pier ngồi sau tay lái.
- Ngồi sang bên đi. - Robert nói. - Tôi sẽ lái.
- Pier nhường chỗ cho anh.
- Chúng ta lên đường đi Venice chứ? - Pier nói.
- Hừm. Chúng ta phải dừng lại một vài nơi trước đã. Đã đến lúc rải xung quanh một vài dấu vết giả.
Phía trước là Hãng dịch vụ du lịch Rossini. Robert dừng xe lại. - Tôi sẽ trở ra sau một phút thôi.
Pier nhìn theo anh đi vào trong hãng. Mình có thể cứ lái xe đi, cô ta nghĩ, và cầm khoản tiền, ông ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy mình cả. Nhưng cái xe khốn kiếp nầy lại được thuê theo tên mình. khốn kiếp.
Bên trong trụ sở hãng, Robert bước đến chỗ người phụ nữ ngồi sau quầy.
- Xin chào. Tôi có thể giúp ông ạ?
- Phải. Tôi là Robert Bellamy. Tôi muốn đi du lịch. - Robert nói với chị ta. - Tôi muốn đăng ký trước.
Đó chính là công việc của chúng tôi, thưa ông.
- Ông định đi đâu? - Chị ta mỉm cười.
- Tôi muốn có một vé máy bay hạng nhất đi Bắc Kinh, vé một chiều.
Chị ta ghi điều đó.
- Và khi nào ông muốn lên đường.
- Thứ sáu nầy.
- Rất được. - Chị ta ấn mấy phím bấn trên một chiếc máy tính. Có một chuyến bay của Hãng hàng không Trung Quốc khởi hành lúc 7 giờ 40 tối thứ sáu.
- Rất tốt.
Chị ta ấn mấy phím nữa.
- Đây! Sự đặt vé trước của ông đã được xác nhận.
- Sẽ trả tiền mặt hay…?
- Ồ tôi chưa xong. Tôi muốn đặt một vé xe lửa đi Buđapest.
- Và vào lúc nào vậy, thưa ông?
- Thứ hai tới.
- Và tên hành khách?
- Cùng tên.
- Ông bay đi Bắc Kinh vào thứ sáu và… - Chị ta lạnh lùng nhìn anh.
- Tôi chưa xong đâu, - Robert lịch thiệp nói. - Tôi muốn có một vé máy bay một chiều đi Miami, Florida vào chủ nhật.
Lúc nầy thì chị ta trợn tròn mắt nhìn anh.
- Thưa ông, nếu như đây là một kiểu?…
Robert rút tấm thẻ tín dụng ONI của anh ra và trao nó cho chị ta.
- Hãy tính tiền vé vào tấm thẻ nầy.
Chị ta nhìn nó một thoáng.
- Xin lỗi. - Chị ta đi vào trong một phòng ở phía sau và trở ra sau vài phút. - Hoàn toàn được. Chúng tôi sẽ vui lòng thu xếp tất cả. Ông muốn tất cả vé đều cùng một tên phải không ạ?
- Phải. Sĩ quan chỉ huy Bellamy.
- Rất tốt.
Robert nhìn chị ta ấn thêm những phím bấm trên máy tính. Một phút sau, ba chiếc vé xuất hiện. Chị ta xé chúng khỏi chiếc máy in.
- Xin cho những chiếc vé vào từng phong bì một. - Robert nói.
- Tất nhiên. Ông có muốn tôi sẽ gửi chúng đến…?
- Tôi sẽ mang chúng đi luôn.
- Vâng, thưa ông.
Robert ký phiếu thanh toán bằng thẻ tín dụng và chị ta đưa cho anh hoá đơn.
- Xin chào ông. Chúc một chuyến đi, những chuyến đi ạ!
- Cám ơn. - Robert mỉm cười.
Một phút sau anh đã ngồi sau tay lái.
- Bây giờ chúng ta đi chứ? - Pier hỏi.
Chúng ta còn phải dừng ở một vài nơi nữa, - Robert nói.
Pier nhìn anh cẩn thận quan sát đường phố trước khi cho xe chuyển bánh.
- Tôi muốn nhờ cô giúp cho một việc. - Robert nói với cô ta.
Bây giờ bắt đầu có chuyện đó, Pier nghĩ. Ông ta sẽ đòi mình làm điều gì đó khủng khiếp.
- Việc gì ạ? Cô ta hỏi.
Họ đã dừng lại trước khách sạn Victoria. Robert trao cho Pier một chiếc phong bì.
- Tôi muốn cô vào thuê một phòng hạng nhất với tên sĩ quan Robert Bellamy. Nói với họ rằng cô là thư ký của ông ấy và ông ấy sẽ đến sau một tiếng, nhưng cô muốn lên xem phòng trước. Khi vào trong phòng rồi thì để phong bì lại trên một cái bàn nào đó trong phòng.
- Có thế thôi à? - Cô ta nhìn anh ngạc nhiên.
Phải.
- Được.
Thật không thể hiểu người đàn ông nầy. Cô ta muốn biết cái người Mỹ điên khùng nầy đang làm gì. Và sĩ quan Robert Bellamy là ai?
Pier ra khỏi xe và đi vào trong tiền sảnh khách sạn. Cô ta hơi lo lắng. Trong quá trình hành nghề, cô đã bị ném ra khỏi một vài khách sạn hạng nhất. Thế nhưng người nhân viên ngồi sau bàn đã chào cô một cách tử tế.
- Tôi có thể giúp cô, thưa tiểu thư?
- Tôi là thư ký của sĩ quan Robert Bellamy. Tôi muốn thuê một phòng hạng nhất cho ông ấy. Ông ấy sẽ có mặt ở đây sau một giờ.
Người nhân viên xem tấm sơ đồ phòng.
- Đúng là tôi còn một phòng hạng nhất rất đẹp.
- Xin cho tôi xem qua được không?
- Tất nhiên. Tôi sẽ cho người đưa cô lên.
Một viên phó quản lý đưa Pier lên gác. Họ bước vào căn phòng khách của khu phòng và Pier nhìn quanh.
- Cô hài lòng chứ, thưa cô?
Pier không hề biết tí gì về những việc thế nầy.
- Được thế nầy là được. - Cô ta lấy chiếc phong bì ra khỏi ví và đặt nó lên chiếc bàn uống cà phê. - Tôi sẽ để cái nầy lại cho ông sĩ quan. - Cô ta nói.
- Được.
Pier không ngăn nổi tò mò. Cô ta mở chiếc phong bì. Trong đó là một chiếc vé máy bay một chiều đi Bắc Kinh với cái tên sĩ quan Robert Bellamy. Pier bỏ tấm vé vào trong phong bì, để nó lên trên bàn và đi xuống gác.
Chiếc Fiat màu xanh đỗ trước cửa khách sạn.
- Có chuyện gì không hả?
- Không.
- Chúng ta phải dừng ở hai nơi nữa, và rồi chúng ta sẽ lên đường. - Robert vui vẻ nói.
Chỗ dừng tiếp theo là khách sạn Valadier. Robert trao một chiếc phong bì khác cho Pier.
- Tôi muốn cô đặt trước một phòng ở đây cho cái tên sĩ quan Robert Bellamy. Nói với họ là ông ấy sẽ đến làm thủ tục trong vòng một giờ. Rồi…
- Tôi để cái phong bì nầy lại trên phòng.
- Đúng.
Lần nầy, Pier đi vào khách sạn tự tin hơn. Phải cư xử như một tiểu thư, cô nghi. Người ta cần phải có một thái độ đàng hoàng. Đó chính là cái bí quyết khốn nạn.
Còn một phòng trống ở khách sạn nầy.
- Tôi muốn xem qua nó. - Pier nói.
Một viên phó quản lý đưa Pier lên gác.
- Đó là một trong những phòng đẹp nhất của khách sạn chúng tôi.
Căn phòng đẹp thật.
- Tôi cho là cũng được. Ông sĩ quan là người rất đặc biệt, ông phải biết thế. - Pier nói vẻ kiêu kỳ.
Cô ta lấy cái phong bì thứ hai ra, mở phong bì vào nhìn vào bên trong, Nó đựng một cái vé xe lửa đi Buđapest mang tên sĩ quan Robert Bellamy. Pier nhìn chằm chằm vào tấm vé, bối rối. Cái trò gì thế nầy nhỉ? Cô ta để lại tấm vé trên chiếc bàn cạnh giường.
- Thế nào? - Khi Pier xuống xe, Robert hỏi.
- Tốt cả.
Nơi dừng cuối cùng nhé.
Lần nầy là khách sạn Leonardo da Vinci. Robert trao cho Pier cái phong bì thứ ba.
- Tôi muốn cô…
- Em biết.
Bên trong khách sạn, một nhân viên nói:
- Vâng, đúng là chúng tôi còn một phòng hạng nhất rất tốt, thưa tiểu thư. Cô nói là khi nào thì ông sĩ quan sẽ đến nhỉ?
- Sau một giờ. Tôi muốn kiểm tra căn phòng trước xem có được không?
- Tất nhiên rồi, thưa cô.
Khu phòng nầy còn sang trọng hơn cả hai khu phòng trước. Viên phó quản lý cho cô xem phòng ngủ rộng rãi với một cái giường có trướng phủ ở giữa phòng.
Thật là một sự lãng phí, Pier nghĩ. Một đêm nghỉ ở đây đối với mình là cả một gia tài. Cô lấy ra chiếc phong bì thứ ba và ngó vào trong. Nó chứa một vé máy bay đi Miami, Florida. Pier để chiếc phong bì lên trên giường.
Viên phó quản lý đưa Pier trở lại phòng khách.
- Chúng tôi có ti vi màu, - Ông ta bước lại gần chiếc ti vi và bật nó lên. Một tấm ảnh của Robert hiện lên trên màn hình. Giọng người phát thanh viên đang nói: "… và Cảnh sát Quốc tế tin rằng hiện hắn đang ở Rome. Hắn ta bị truy nã để thẩm vấn về một đường dây buôn lậu ma tuý quốc tế. Đây là Bernard Shaw của chương trình thời sự CNN". Pier nhìn chòng chọc vào màn hình ti- vi, chết sững.
Tất cả đều đáng hài lòng chứ ạ? - Viên phó quản lý tắt máy.
- Vâng, - Pier chậm chạp đáp. Một tên buôn lậu ma tuý.
- Chúng tôi mong chờ được tiểp đón ông sĩ quan.
Khi Pier ngồi vào trong xe cùng với Robert, cô đã nhìn anh với cặp mắt khác.
- Giờ thì chúng ta sẵn sàng lên đường rồi. - Robert mỉm cười.
Tại khách sạn Victoria, một người đàn ông trong một bộ complê màu sẫm đang xem xét danh sách đăng ký khách. Anh ta ngẩng lên nhìn người nhân viên.
- Sĩ quan Bellamy làm thủ tục thuê phòng lúc mấy giờ?
Ông ta chưa đến đây. Cô thư ký của ông ta đặt buồng. Cô ta nói ông ta sẽ có mặt trong vòng một giờ.
Người đàn ông quay sang nhìn người đi cùng với anh ta.
Cho kiểm tra toàn bộ khách sạn. Lấy thêm lực lượng. Tôi sẽ chờ ở trên gác. - Anh ta quay sang người nhân viên. - Mở khoá phòng cho tôi.
Cửa mở ra. Người đàn ông mặc complê màu sẫm di chuyển một cách thận trọng, súng cầm tay. Khu phòng trống không.
- Anh ta nhìn cái phong bì ở trên bàn và nhặt nó lên. Ngoài phong bì ghi: "Sĩ quan Robert Bellamy".
Anh ta mở phong bì và liếc nhìn vào bên trong. Một tích tắc sau, anh ta đã quay số gọi về trụ sở SIFAR.
Francesco Cesar đang họp dở chừng với đại tá Frank Johnson. Trước đó hai tiếng đồng hồ, đại tá Johnson đã hạ cánh xuống sân bay Leonardo da Vinci nhưng ông ta không hề tỏ ra mệt mỏi.
Theo chỗ chúng ta biết, - Cesar đang nói, Bellamy vẫn còn ở Rome. Chúng ta đã có hơn 30 báo cáo về những dấu vết của anh ta.
- Có xác minh được gì không?
- Không.
Điện thoại réo vang.
- Thưa đại tá, đây là Luigi. - Giọng nói trong điện thoại vang lên. - Chúng tôi đã kiếm được hắn rồi. Tôi đang ở trong khu phòng của hắn ta tại khách sạn Victori ạ. Tôi có tấm vé máy bay đi Bắc Kinh của hắn. Hắn sẽ đi vào ngày thứ sáu.
Cesar cất giọng đầy hồi hộp.
- Tốt. Cứ ở đó. Chúng tôi sẽ đến ngay.
Ông ta gác máy và quay sang đại tá Johnson.
- Thưa đại tá, tôi e rằng chuyến đi của ông thật phí công. Chúng tôi đã tóm được hắn. Hắn đã đăng ký thuê phòng tại khách sạn Victoria. Họ tìm thấy một chiếc vé máy bay mang tên hắn, đi Bắc Kinh vào ngày thứ sáu.
Bellamy dùng tên anh ta để đăng ký thuê phòng khách sạn ư? Đại tá Johnson ôn hoà nói.
- Phải.
- Và vé máy bay cũng mang tên anh ta hả?
- Phải. Đại tá Cesar đứng dậy. - Chúng ta hãy cùng tới đó.
- Đừng để phí thời gian của ông. - Đại tá Johnson lắc đầu - Cái gì hả?
- Béllamy sẽ không bao giờ…
Điện thoại lại réo vang. Cesar chộp máy. Một giọng nói vang lên:
- Đại tá phải không? Đây là Mario. Chúng tôi đã phát hiện Bellamy. Hắn ta ở khách sạn Valadier.
- Hắn ta sẽ đi tàu hoả tới Buđapest vào ngày thứ hai.
- Ngài muốn chúng tôi làm gì?
- Tôi sẽ liên lạc lại với anh. - Đại tá Cesar nói.
Ông ta quay sang nhìn đại tá Johnson.
- Họ tìm thấy một vé xe lửa đi Buđapest mang tên Bellamy. Tôi không hiểu cái gì…
- Điện thoại lại đổ chuông.
- Hả? - Giọng ông ta gay gắt hơn.
- Đây là Bruno. Chúng tôi đã phát hiện ra Bellamy. Hắn đặt phòng tại khách sạn Leonardo da Vinci. Hắn ta sẽ bay đi Miami vào chủ nhật. Tôi sẽ phải…
- Trở về đây. - Cesar quát lên. Ông ta dập mạnh máy xuống - Hắn giở trò gì vậy?
Đại tá Johnson nói một cách quả quyết.
- Anh ta đang lo liệu để ông phung phí nhân lực của ông, có phải thế không nào?
- Chúng ta làm gì bây giờ hả?
- Chúng ta bẫy thằng chó đẻ đó.
° ° °
Họ đang chạy trên đường Cassia, gần Logiata, hướng tới Venice ở phía bắc.
Cảnh sát hẳn đang bịt mọi ngả đường chính dẫn khỏi Italia, nhưng chắc họ đợi anh về phía tây, để sang Pháp hoặc Thuỵ Sĩ. Từ Venice, Robert nghĩ, mình có thể đi xuồng máy cao tốc tới Trièste và tìm đường đến Áo. Sau đó…
Tiếng Pier cắt ngang những suy nghĩ của anh.
- Em đói.
- Cái gì?
- Chúng ta chưa hề ăn sáng hoặc ăn trưa.
- Tôi xin lỗi. - Robert nói. Anh đã quá mải nghĩ ngợi mà quên cả chuyện ăn uống. - Chúng ta sẽ dừng ở tiệm ăn tới nhé.
Pier quan sát anh trong lúc lái xe. Cô chưa bao giờ thấy khó xử đến thế. Cô sống trong một thế giới của đám ma cô và kẻ cắp và những kẻ buôn bán ma tuý. Người đàn ông nầy khỏng giống như một tội phạm.
Họ dừng lại một thị trấn bên đường, trước một tiệm ăn nhỏ. Robert lái xe vào khu đậu xe và anh cùng Pier rời khỏi xe.
Cái tiệm ăn đầy kín những khách quen và ồn ào với những câu chuyện và tiếng bát đĩa loảng xoảng.
Robert tìm một cái bàn ở sát tường và ngồi xuống chiếc ghế nhìn ra cửa ra vào. Một người hầu bàn đi đến và đưa cho họ thực đơn.
Robert nghĩ: Lúc nầy hẳn Susan đang ở trên thuyền rồi. Đây có thể là lần cuối cùng mình có thể nói chuyện với cô ấy.
- Cô xem thực đơn đi. - Robert đứng dậy. - Tôi sẽ quay lại ngay thôi.
Pier nhìn theo anh đi ra một máy điện thoại công cộng chỗ gần bàn của họ.
- Anh bỏ một đồng tiển xu vào trong máy.
- Tôi muốn nói với tổng đài hàng hải ở Gibralta.
- Cám ơn.
Ông ta gọi cho ai ở Gibralta nhỉ? Pier tò mò. Phải chăng đó là lối thoát của ông ta?
- Xin chào, tôi muốn gọi chiếc du thuyền Mỹ, Thanh Bình, ngoài khơi Gibralta, tính tiền ở đó. Whisky Sugar 337. Cảm ơn.
Những nhân viên tổng đài trao đổi với nhau trong một vài phút và anh được chấp nhận.
Robert nghe thấy tiếng Susan trên máy.
- Susan.
- Robert. Anh khoẻ không?
- Khoẻ. Anh chỉ muốn nói với em…
- Em biết anh muốn nói gì. Điều đó được nói đầy trên đài và trên tivi. Vì sao mà Cảnh sát Quốc tế lại truy lùng anh hả?
- Đó là một câu chuyện dài.
- Anh cứ nói. Em muốn biết.
Anh lưỡng lự.
- Đó là chuyện chính trị, Susan. Anh có bằng chứng là một số chính phủ đang cố bưng bít mọi chuyện quan trọng. Vì thế mà Cảnh sát Quốc tế truy lùng anh đấy.
Pier chăm chú nghe phần cuối cuộc nói chuyện của Robert.
- Em có thể làm gì để giúp anh hả?
- Không có gì cả, em yêu ạ. Anh gọi lại để được nghe thấy tiếng em một lần nữa trong trường hợp trong trường hợp anh không thoát khỏi được chuyện nầy.
- Đừng nói thế. - Trong giọng cô có vẻ hoảng sợ. - Anh có thể nói với em anh đang ở nước nào không"
- Italia.
Một thoáng im lặng ngắn.
- Được. Bọn em không ở xa anh lắm. Bọn em ở ngay ngoài khơi Gibralta mà, bọn em có thể đón anh ở bất kỳ chỗ nào anh muốn.
- Không, anh…
- Hãy nghe em. Đó có thể là cơ hội thoát duy nhất của anh.
- Anh không thể để em làm điều đó, Susan ạ. Em sẽ gặp nguy hiểm.
Monte bước vào trong phòng đúng lúc có thể nghe được một phần câu chuyện.
- Để anh nói chuyện với anh ta.
- Chờ một phút, Robert, Monte muốn nói chuyện với anh đấy.
- Susan, anh không…
- Robert, tôi hiểu là anh đang gặp khó khăn nghiêm trọng. - Giọng Monte xuất hiện trên máy.
- Anh có thể cho như vậy. Điều dối trá nhất trong năm.
- Chúng tôi muốn giúp anh thoát ra. Họ sẽ không tìm kiếm anh trên một chiếc du thuyền. Vì sao anh lại không để chúng tôi đón anh nhỉ?
- Monte, cảm ơn, tôi cảm ơn chuyện đó. Câu trả lời là không.
- Tôi nghĩ là anh đang mắc một sai lầm. Ở đây, anh sẽ an toàn.
Vì sao hắn lại sốt sắng giúp đỡ thế cơ chứ.
- Dù sao chăng nữa thì cũng xin cảm ơn. Tôi sẽ lo chuyện của tôi. Tôi muốn được nói chuyện tiếp với Susan.
- Được thôi. - Monte Banks trao lại máy cho Susan. - Hãy thuyết phục hắn. - Anh ta khuyến khích cô.
- Xin để bọn em giúp anh. - Cô nói vào trong máy.
- Em đã giúp anh rồi, Susan. - Anh phải ngưng lời trong một thoáng. - Em là phần tốt đẹp nhất trong đời anh. Anh chỉ muốn em biết rằng anh sẽ luôn luôn yêu em. - Mặc dù luôn luôn có thể không còn là chuyện gì to tát nữa.
- Anh sẽ còn gọi cho em chứ?
- Nếu như anh có thể.
- Hứa với em đi.
- Thôi được. Anh hứa.
Anh chậm chạp gác máy. Vì sao mình lại làm điều đó đối với cô ấy? Vì sao mình làm điều đó đối với chính mình? Bellamy, mầy là một thằng ngốc đa cảm.
Anh đi trở lại bàn.
- Chúng ta ăn thôi. - Robert nói. Họ gọi đồ ăn.
- Em nghe thấy câu chuyện của ông. Cảnh sát đang truy tìm ông, có phải không?
Robert giật mình. Bất cẩn quá. Cô ta sẽ trở thành điều rắc rối.
- Đó là chuyện hiểu lầm một chút. Tôi…
- Đừng làm em như một con ngốc. Em muốn giúp ông.
- Vì sao cô lại muốn giúp tôi? - Anh nhìn cô một cách cảnh giác.
Pier nhoài người về phía trước.
- Bởi vì ông thật hào phóng với em. Và em ghét cảnh sát. Ông không biết cái cảnh em đứng đường thế nào, bị bọn chúng săn đuổi và coi như rác rưởi. Chúng bắt em vì tội bán dâm nhưng chúng mang em vào những phòng kín của chúng và truyền tay nhau chơi. Chúng là đồ súc vật. Em sẽ làm bất kỳ điều gì để có thể trả thù bọn chúng. Bất kỳ điều gì mà em có thể giúp được ông.
- Pier, không có điều gì cô…
- Cảnh sát có thể bắt được ông một cách dễ dàng ở Venice. Nếu ông ở một khách sạn, họ có thể tìm được ông. Nếu ông tìm cách lên một con tàu, họ sẽ đón bẫy ông. Nhưng em biết một chỗ mà ông sẽ an toàn trước bọn họ. Mẹ và em em sống ở Naples. Chúng ta có thể đến đấy. Cảnh sát sẽ không bao giờ tìm kiếm ông ở đó cả.
Robert im lặng một lát, ngẫm nghĩ. Điều Pier nói hoàn toàn có ý nghĩa. Một ngôi nhà tư sẽ an toàn hơn bất kỳ nơi nào khác, và Naples là một thành phố cảng lớn. Từ đó có thể dễ dàng kiếm được một con tàu. Anh ngập ngừng trước khi trả lời. Anh không muốn mang lại nguy hiểm cho Pier.
- Pier, nếu cảnh sát tìm thấy tôi, họ sẽ hạ sát tôi theo mệnh lệnh. Cô sẽ bị coi như một tòng phạm. Cô có thể là đang tự đẩy mình vào chuyện rắc rối đấy.
- Điều đó thật đơn giản. - Pier mỉm cười. - Chúng ta sẽ không để cho họ tìm thấy.
Robert mỉm cười đáp lại nụ cười của cô ta. Anh có một quyết định trong đầu.
- Được. Ăn cho xong đi. Chúng ta sẽ đi Naples.
° ° °
- Người của ông không biết anh ta đi về hướng nào phải không? - Đại tá Frank Johnson nói.
- Lúc nầy thì không. Nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian, trước khi… - Francesco Cesar thở dài.
- Chúng ta không có thời gian. Ông đã xác minh về nơi ở hiện nay của người vợ cũ của anh ta chưa đấy?
- Vợ cũ của anh ta à? Chưa. Tôi không cho rằng…
- Vậy là ông chưa làm bài tập rồi. - Đại tá Johnson quát lên. - Cô ta đã cưới một người đàn ông tên là Monte Banks. Tôi đề nghị ông tìm kiếm họ ngay.
Nhanh lên.

Chương 38
Cô lang thang dọc theo các đường phố lớn, dường như không biết là mình đang đi đâu. Từ cái vụ tai nạn khủng khiếp đó đã bao nhiêu ngày rồi nhỉ?
Cô không đếm được nữa. Cô mệt mỏi đến mức khó khăn lắm mới nghỉ ngơi được. Cô khát nước một cách khủng khiếp, nhưng không phải là thứ nước bị ô nhiễm mà những người trái đất vẫn uống, mà phải là nước mưa trong sạch. Cô cần có thứ chất lỏng tinh khiết để phục hồi sự sống trong cô, để có lại sức khoẻ mà tìm lại cái bộ phận tinh tế trong cái máy phát. Cô đang đuối sức.
Cô bước loạng choạng và đâm sầm vào một người đàn ông.
- Ô. Nhìn xem. - Người chào hàng Mỹ nhìn cô kỹ hơn và mỉm cười. - Xin chào. Không ngờ lại đụng vào cô như thế nầy.
Một con búp bê tuyệt vời làm sao vâng, có gì mà không ngờ.
- Cô từ đâu tới cô bé?
- Hệ mặt trời thứ bảy của các thiên hà.
- Tôi thích những cô gái hài hước. Cô đang đi đâu thế? - Ông ta cười phá lên.
- Tôi không biết. - Cô lắc đầu. - Ở đây, tôi là một người lạ.
- Cô đã ăn tối chưa? Lạy chúa, mình nghĩ mình đang gặp may đây.
- Chưa. Tôi không thể ăn được đồ ăn của các vị.
Mình đã vớ phải một người kỳ quặc thật sự đây. Nhưng là một người đẹp.
- Cô đang ở đâu?
- Tôi chẳng ở đâu cả.
- Cô không ở cả khách sạn à?
Một khách sạn ư? - Cô đã nhớ. Những cái hộp cho lữ khách.
- Không. Tôi phải tìm một nơi nào đó để ngủ. Tôi rất mệt.
Ông ta ngoác mồm cười.
- Ồ tôi có thể lo chuyện đó. Sao cô không lên phòng khách sạn của tôi nhỉ? Ở đó có một cái giường to đẹp và tiện nghi. Em có thích thế không?
- Ồ, có rất thích.
- Tuyệt. - Ông ta không dám tin vào vận may của mình. Mình cam đoan là cô ta sẽ tuyệt vời trong chuyện ái ân cho mà xem.
- Giường của ông chuyên dành cho việc ái ân à? - Cô nhìn ông ta ngạc nhiên.
- Cái gì? Không, không. Cô thật thích đùa, có phải thế không hả? - Ông ta trố mắt nhìn cô.
- Chúng ta có thể đi ngủ bây giờ được không? - Cô gần như không thể mở nổi mắt ra nữa.
- Chắc chắn là thế. Khách sạn của tôi ở ngay góc phố thôi. - Ông ta xoa hai tay vào nhau.
Khi đã vào trong phòng, người đàn ông hỏi:
- Cô có muốn uống gì không? Chúng ta hãy làm cho cô mềm ra một chút.
Cô muốn uống khủng khiếp, nhưng không phải cái thứ nước uống mà người trái đất nầy có thể mời.
- Không. - Cô nói. - Giường ở đâu?
Lạy Chúa, cô ta đang nóng rực rồi.
- Ở trong nầy, em yêu. - Ông ta dẫn cô vào phòng ngủ. - Em không muốn uống thật à?
- Thật mà.
- Vậy thì sao em không… ờ, cởi ra đi?
Cô gật đầu. Đó là một tập quán của người trái đất.
Cô cởi cái váy đang mặc ra. Dưới váy đó, cô không còn gì hết. Thân thể cô là cả một vẻ đẹp thanh tú.
Người đàn ông nhìn cô đăm đắm, sung sướng nói;
- Đây là đêm may mắn của anh, em yêu ạ. Và cả là của em nữa. Anh sẽ làm tình với em để em thấy rằng em chưa bao giờ được làm tình cả. Ông ta xé bỏ quần áo một cách cuống cuồng và nhảy lên giường, nằm vào cạnh cô. - Nào, - Ông ta nói. - Anh sẽ cho em thấy một cuộc tình ra trò. - Ông ta ngước nhìn lên. Mẹ kiếp, anh lại vẫn để đèn kìa. - Ông ta định nhỏm dậy.
- Thôi khỏi. - Cô ngà nghệt nói. - Tôi sẽ tắt nó đi.
Và trong khi ông ta nhìn, cánh tay cô với ra, dài ra mãi, ngang căn phòng rộng, và những ngón tay của cô biến thành những dây leo màu xanh khi chúng bám vào cái công tắc điện.
Trong bóng tối, ông ta thét lên.

Chương 39
Họ đang chạy với tốc độ cao trên xa lộ Sole dẫn đi Naples. Trong suốt nữa giờ, họ chạy trong im lặng, mỗi người mê mải với những ý nghĩ của mình.
Pier phá vỡ sự im lặng:
- Ông sẽ ở nhà mẹ em trong bao lâu? - Cô hỏi.
- Ba hoặc bốn ngày, nếu được.
- Thế thì được.
Robert không định ngủ lại đó quá một đêm, hai là cùng. Nhưng anh giữ im kế hoạch của mình. Ngay khi nào tìm được một con tàu an toàn, anh sẽ lên đường rời khỏi Italia.
- Em sốt ruột mong được gặp lại gia đình, - Pier nói.
- Cô chỉ có một người anh em nữa thôi à?
- Vâng, Carlo. Nó là em em.
- Pier, kể cho tôi nghe về gia đình đi.
Cô ta nhún vai.
- Chẳng có gì nhiều mà kể. Cha em cả đời làm việc dưới bến tàu. Khi em mười lăm tuổi, một chiếc cẩu đổ xuống giết chết ông. Mẹ em thì đau ốm và em phải nuôi bà, nuôi cả Carlo. Em có một người bạn ở xưởng phim Cinecitta và anh ta kiếm cho em những vai phụ. Họ trả rất ít và em đã phải ngủ với thằng cha trợ lý đạo diễn. Em cho rằng ở ngoài đường em có thể còn kiếm được nhiều tiền hơn. Bây giờ thì em làm cả hai nghề…
Không hề có vẻ tự thương cảm trong giọng nói của cô ta.
- Pier, cô có chắc là mẹ cô không phản đối việc cô mang một người lạ về nhà không?
- Em tin chắc. Mẹ con em rất gần gũi. Mẹ sẽ vui khi thấy em về. Ông yêu lắm hả?
- Bà mẹ cô ấy ư? - Robert nhìn sang cô ta, ngạc nhiên.
- Người phụ nữ mà ông nói chuyện điện thoại trong quán ăn ấy, Susan.
- Điều gì làm cho cô nghĩ là tôi yêu cô ấy?
- Giọng nói của ông. Cô ấy là ai thế?
- Một người bạn.
- Cô ta thật may mắn. Em mong giá mà cũng có ai quan tâm đến em như thế. Robert Bellamy có phải tên thật của ông không?
- Đúng.
- Và ông là một sĩ quan à?
Khó trả lời hơn.
- Tôi không rõ, Pier, - anh đáp, - trước đây thì là như thế.
- Ông có thể nói với em vì sao mà Cảnh sát quốc tế săn lùng ông không?
Anh nói một cách thận trọng:
- Tốt hơn là tôi không nói gì với cô thêm nữa. Chỉ ở bên tôi cũng đủ chuốc cho cô nhiều rắc rối. Cô biết càng ít càng tốt.
- Được thôi ông Robert.
Anh nghĩ tới hoàn cảnh lạ lùng đã đưa họ đến với nhau.
- Tôi hỏi cô điều nầy nhé. Nếu như cô biết những sinh vật lạ đến trái đất bằng những con tàu vũ trụ thì cô có sợ không hả?
- Ông hỏi nghiêm túc đấy chứ? - Pier nhìn anh một thoáng.
- Rất nghiêm túc.
Cô lắc đầu:
- Không. Em nghĩ là điều đó sẽ thật là thú vị.
- Ông có tin vào những chuyện đó không?
- Tôi không biết. - Robert cười vang.
- Chuyện nầy có liên quan gì tới việc cảnh sát săn lùng ông không đấy?
- Không, - Robert đáp nhanh. - Không có gì.
- Nếu như em nói với ông điều nầy, ông có hứa là sẽ không cáu với em không đã?
- Tôi hứa.
Khi cô ta nói, giọng cô ta thật nhỏ đến mức anh khó khăn lắm mới nghe thấy.
- Em nghĩ là em yêu ông.
- Pier…
- Em biết là em thật ngốc nghếch. Nhưng chưa bao giờ em nói với ai như thế cả. Em muốn ông hiểu như thế.
- Pier, tôi lấy làm hãnh diện.
- Ông chế giễu em đấy ư?
- Không, không hề, - anh nhìn cái đông hồ đo xăng. - Tốt hơn là chúng ta nên tìm ngay một cây xăng.
Mười lăm phút sau, họ tới nơi.
- Chúng ta sẽ đổ xăng ở đây. - Robert nói.
- Phải - Pier mỉm cười. - Em mong có thể gọi và báo cho mẹ em biết là em đang mang một người đàn ông đẹp trai về nhà.
Robert ghé xe vào sát cây xăng và nói với người phục vụ:
- Xin đổ đầy cho.
- Vâng, thưa ông.
Pier nhoài người và hôn lên má Robert.
- Em sẽ trở lại ngay.
Robert nhìn theo cô đi vào phía trong trạm để đổi tiền lẻ để gọi điện thoại. Cô ta đẹp thật, Robert nghĩ. Và thông minh. Mình phải thận trọng để khỏi xúc phạm cô ta.
Bên trong trạm, Pier đang quay điện thoại. Cô ta quay lại mỉm cười và vẫy vẫy Robert. Khi người nhân viên tổng đài thưa máy, Pier nói:
- Cho tôi Cảnh sát quốc tế. Nhanh lên.

Chương 40
Ngay từ khi nhìn thấy trên màn ảnh tivi thông báo về Robert Bellamy, Pier đã biết rằng mình sắp trở thành giàu có. Nếu như Interpol, lực lượng cảnh sát chống tội phạm quốc tế, đang tìm kiếm Robert thì hẳn phải có một khoản tiền thưởng lớn cho việc bắt giữ được người nầy. Và cô lại là người duy nhất biết ông ta hiện ở đâu. Khoản tiền thưởng nầy sẽ là của cô ta tốt. Việc thuyết phục được ông ta đến Naples, nơi cô có thể theo dõi chặt ông ta, quả là một việc làm thiên tài.
Trên điện thoại, tiếng một người đàn ông nói:
"Interpol đây, cho phép tôi giúp bà?"
Tim Pier đập thình thịch. Cô ta liếc nhìn qua cửa kính để có thể tin chắc rằng Robert vẫn đang ở chỗ bơm xăng.
- Vâng. Các ông đang tìm kiếm một người tên là sĩ quan Robert Bellamy phải không?
Một thoáng im lặng.
- Xin cho hỏi ai đang gọi vậy?
- Không cần biết chuyện đó. Các ông có tìm kiếm ông ta hay không?
- Tôi sẽ phải để bà nói chuyện với một người khác.
- Xin bà vui lòng chờ máy? - Ông ta quay sang người trợ lý. - Tìm xem máy nào đang gọi đó, nhanh lên.
Ba mươi giây sau, Pier đang nói chuyện với một quan chức cấp cao.
- Vâng, thưa bà. Tôi có thể giúp bà chăng.
- Không. Đồ ngốc. Tôi đang tìm cách giúp các người thì có. Tôi biết sĩ quan Robert Bellamy. Các ông có muốn giữ ông ta hay không?
- Nhưng, có, thưa bà, chúng tôi rất muốn bắt ông ta. Và bà nói là đang giữ ông ta à?
- Đúng thế. Ông ta đang đi với tôi đây. Ông ta đáng giá bao nhiêu với các ông thế?
- Bà đang nói về chuyện tiền thưởng ư?
- Tất nhiên là tôi đang nói về tiền thưởng. - Cô ta lại nhìn qua kính cửa sổ. Những thằng cha nầy mới ngu ngốc làm sao.
Viên quan chức ra hiệu cho người trợ lý của ông ta hành động nhanh chóng hơn.
- Chúng tôi chưa treo giải thưởng đối với cái đầu của ông ta, thưa bà, bởi vậy…
- Ồ vậy thì ấn định ngay đi. Tôi đang vội.
- Bà đang chờ một khoản tiền thưởng bao nhiêu ạ?
- Tôi không biết. - Pier nghĩ một chút. - Năm mươi nghìn đôla có được không?
- Năm mươi nghìn đôla là cả một khoản tiền lớn. Nếu như bà nói cho tôi biết hiện bà đang ở đâu chúng tôi có thể đến chỗ bà và thương lượng về chuyện đó…
Hẳn hắn ta nghĩ mình là một con ngu ngốc.
Không. Hoặc là các ông đồng ý trả như tôi muốn hoặc…
Pier nhìn lên và thấy Robert đang lại gần.
- Nhanh lên. Có hay không?
- Rất tốt, thưa bà. Chúng tôi đồng ý trả bà…
Robert đang đi lại gần Pier.
Pier nói vào trong máy:
- Mẹ, chúng con sẽ về vào lúc ăn tối. Mẹ sẽ thích anh ấy. Anh ấy rất hay. Tốt. Chúng con sẽ về gặp mẹ sau. Chào mẹ.
Pier gác máy và quay lại Robert.
- Mẹ đang sốt ruột được gặp anh.
° ° °
Tại trụ sở cảnh sát quốc tế, viên quan chức cấp cao kia nói:
- Anh đã tìm ra cú điện thoại đó chưa?
- Rồi. Nó được gọi từ một cây xăng trên xa lộ Sole.
Có vẻ như họ đang trên đường đi Naples.
° ° °
Đại tá Francesco Cesar và đại tá Frank Johnson đang nghiên cứu tấm bản đồ treo trong phòng làm việc của Cesar.
- Naples là một thành phố lớn, - Đại tá Cesar nói. - Có tất cả nghìn chỗ cho anh ta ẩn náu ở đó.
- Về người phụ nữ kia thì sao?
- Chúng ta không hề biết cô ta là ai.
- Vì sao chúng ta không tìm hiểu? - Johnson hỏi.
- Bằng cách nào? - Cesar nhìn ông ta, ngạc nhiên.
- Nếu như Bellamy vội vã cần có một phụ nữ đồng hành để nguy trang, anh ta sẽ làm gì hả?
- Có khả năng là anh ta sẽ nhặt một con điếm.
- Đúng. Chúng ta cần bắt đầu từ đâu hả?
- Từ Tor di Ounto.
Họ chạy dọc theo con đường Archeologica và quan sát những cô gái điếm đang uốn éo. Ngồi cùng xe với đại tá Cesar và đại tá Johnson là đại uý Bellini thanh tra cảnh sát khu vực nầy.
- Chuyện nầy sẽ không dễ đâu. - Bellini nói. - Chúng nó đều ganh ghét nhau, nhưng khi động tới cảnh sát thì chúng lại như chị em ruột thịt vậy. Chúng sẽ không hé răng.
- Chúng ta sẽ xem. - Đại tá Johnson nói.
Bellini ra lệnh dừng lại và ba người bước ra khỏi xe. Những cô gái điếm nhìn họ đầy vẻ cảnh giác. Bellini bước đến bên một trong số những cô gái.
- Chào Maria. Công việc thế nào?
- Sẽ tốt hơn nếu ông đi khỏi đây.
Chúng tôi không có ý định ở lại. Tôi chỉ muốn hỏi cô một câu thôi. Chúng tôi đang tìm một người Mỹ, người đã nhặt một trong những cô gái ở đây đêm hôm qua. Chúng tôi muốn biết cô bé đó là ai. Cô có thể giúp chúng tôi không?
- Mấy cô gái điếm khác đã xúm quanh để nghe chuyện.
- Tôi không thể giúp ông. - Maria nói. - Nhưng tôi biết người có thể giúp được.
Bellini gật đầu hài lòng.
- Tốt. Ai?
Maria chỉ sang một cửa hiệu ở bên kia đường. Tấm biển trong cửa kính đề: Xem bói - Xem chỉ tay.
- Bà Lucia có thể giúp ông.
Các cô gái cười vang tán thưởng.
Đại uý Bellini nhìn họ và nói:
- Vậy là các cô đều thích đùa có phải không? Ồ, chúng ta sẽ chơi một trò mà tôi nghĩ là các cô sẽ rất thích. Hai ông đây rất muốn biết tên cô gái đã đi cùng với người Mỹ kia. Nếu các cô không biết cô ta là ai, tôi đề nghị các cô nói với bạn bè của mình, tìm ra ai đó biết, và khi các cô có câu trả lời thì gọi điện cho tôi.
- Sao chúng tôi lại phải làm thế? - Một trong số họ hỏi đầy vẻ thách thức.
- Các cô sẽ biết.
Một giờ sau, tất cả gái điếm ở Rome thấy họ đang bị vây ráp. Các xe tuần tiễu quét thành phố và bắt tất cả những cô gái lang thang trên các đường phố cùng với những tên dắt gái của họ. Những lời kêu gào phản đối vang lên.
- Các ông không thể làm thế… Tôi đã trả tiền bảo vệ cho cảnh sát.
- Tôi đã hành nghề ở khu vực nầy năm năm nay…
- Tôi đã cho ông và các bạn ông chơi không. Ông không nhớ à?
- Tôi trả ông tiền bảo vệ để làm gì hả…
Tới ngày hôm sau, các đường phố thực sự sạch bóng gái điếm và các nhà giam thì chật ních.
Đại tá Cesar và đại tá Johnson đang ngồi trong phòng làm việc của đại uý Bellini.
- Sẽ khó mà giữ mãi họ trong trại giam được. - Đại uý Bellini cảnh cáo. - Tôi cũng có thể nói thêm rằng chuyện nầy sẽ là rất tệ hại cho ngành du lịch.
- Đừng lo. - Đại tá Johnson nói. - Sẽ có kẻ phun ra. Hãy cứ giữ nguyên sức ép.
Đến chiều thì họ đột phá được. Thư ký của đại uý Bellini nói:
- Có một ông Lorenzo muốn gặp ông.
- Cho ông ta vào.
Ông Lorenzo mặc một bộ complê rất đắt tiền và đeo ba cái nhẫn kim cương trên ba ngón tay. Ông ta vốn là một kẻ chuyên nghề dắt gái.
- Tôi có thể làm gì cho ông hả? - Bellini hỏi.
Lorenzo mỉm cười.
- Đó là việc tôi có thể làm cho ông cơ, thưa quý vị. Một người quen của tôi báo với tôi rằng các ông đang tìm kiếm một gái làng chơi, đã rời khỏi thành phố với một người Mỹ, và do chỗ chúng tôi luôn sẵn sàng hợp tác với nhà chức trách nên tôi nghĩ là tôi sẽ trao cho các ông cái tên của cô ta.
- Cô ta là ai? - Đại tá Johnson nói.
Lorenzo phớt lờ câu hỏi đó.
- Tất nhiên, tôi tin chắc là các ông sẽ bày tỏ sự đánh giá cao bằng cách thả tất cả những cô gái của tôi cùng bạn bè họ.
Đại tá Cesar nói:
- Chúng tôi không quan tâm đến bất kỳ con điếm nào của ông. Tất cả những gì chúng tôi muốn là tên của cô gái kia.
- Đó là một tin rất mừng, thưa ông. Nói chuyện với những người hiểu biết luôn là một điều thú vị. Tôi biết rằng…
- Tên cô ta, Lorenzo.
- Vâng, tất nhiên. Tên cô ta là Pier. Pier Valli. Người Mỹ kia đã ngủ qua đêm với cô ta ở khách sạn Incrocio và sáng hôm sau thì họ ra đi. Cô ta không phải là một trong những cô gái của tôi. Nếu như tôi có thể nói…
° ° °
Bellini đã nói vào máy điện thoại.
- Mang tới hồ sơ Pier Valli. Gấp.
- Tôi hy vọng quý ngài sẽ tỏ lòng tri ân bằng cách…
Bellini nhìn lên và nói vào trong máy:
- Và chấm dứt chiến dịch Puttana.
- Cám ơn. - Lorenzo cười.
Năm phút sau, hồ sơ về Pier Valli được đặt trên bàn Bellini.
- Cô ta bắt đầu hành nghề khi mới mười lăm tuổi.
- Từ đó, cô ta bị bắt giữ cả chục lần. Cô ta…
- Cô ta từ đâu đến? - Đại tá Johnson cắt ngang.
- Naples. - Hai người đàn ông nhìn nhau. - Cô ta có mẹ và một thằng em ở đó.
- Ông có thể tìm xem cụ thể là ở đâu không?
- Tôi có thể kiểm tra được.
- Làm đi. Ngay bây giờ.

Âm Mưu Ngày Tận Thế(Truyện Trinh Thám)<Chương 31-40> Rating: 4.5 Diposkan Oleh: Unknown

0 nhận xét:

Đăng nhận xét